Thứ Bảy, 22 tháng 10, 2011

Tội ác và trừng phạt

Cuộc đối thoại của Raxkonikov và Sonia
(Tội ác và trừng phạt- Dostoievski)

“Tội ác và trừng phạt” là cuốn tiểu thuyết vĩ đại của Dostoievski, thể hiện những mâu thuẫn giằng xé và khát vọng hài hòa đến cùng cực của nhà văn. Với “tội ác và trừng phạt”, Dostoievski dường như đã đi đến những ngóc ngách sâu xa và phức tạp nhất trong tâm hồn con người bằng việc phân tích tâm lí nhân vật. Một trong những thủ pháp quan trọng để nhà văn thể hiện tâm lí nhân vật chính là việc dựng lên những cuộc đối thoại của các nhân vật. Và một trong những cuộc đối thoại quan trọng trong tác phẩm là cuộc đối thoại của Raxkonikov và Sonia.

Ngôn ngữ là công cụ để con người tư duy và là phương tiện để giao tiếp, trao đổi thông tin, chia sẻ tình cảm và tư tưởng. Một cách trực tiếp để thực hiện mục đích đó là đối thoại. Đối thoại có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của con người. Các nhà nghệ sĩ đã tận dụng vai trò của nó để sáng tạo nghệ thuật. Đi vào văn học, đối thoại vẫn là “lời nói của các nhân vật tham gia giao tiếp hướng vào nhau trong đó sự chủ động và thụ động được chuyển đổi luân phiên từ phía này sang phía kia” nhưng nó được coi là một biện pháp để nhà văn xây dựng các tác phẩm tự sự. Dostoievski đã sử dụng rất nhiều đối thoại để xây dựng tác phẩm của mình. Mỗi cuộc đối thoại quan trọng trong tác phẩm đều cho ta thấy tư tưởng của nhân vật. Những cuộc đối thoại đó là những cột mốc chuẩn bị cho một sự kiện sắp xảy đến, mở ra một hoàn cảnh mới mà nhân vật sắp lâm vào từ đó thúc đẩy cốt truyện phát triến. Ví dụ cuộc đối thoại của Raxkonikov và bà Aliona trong đoạn đầu tác phẩm là mở đầu của một quan hệ tất yếu sẽ phát triển và một hoàn cảnh mới mà nhân vật sắp lâm vào; cuộc đối thoại của Raxkonikov và Mamelazov củng cố thêm tư tưởng và hành động thể nghiệm tư tưởng bằng tội ác của Raxkonikov; cuộc đối thoại của Raxkonikov và Razumikhin lại mở ra quá trình tâm lí tội ác của Raxkonikov…Cuộc đối thoại của Raxkonikov với Sonia cùng là một cuộc đối thoại quan trọng trong tác phẩm. Đây là lần đầu tiên sau những dằn vặt đau khổ bởi hành động tội ác Raxkonikov đã tự thú, hành động này đánh dấu cho sự cứu rỗi tâm hồn anh.
Tội ác và trừng phạt là cuốn tiểu thuyết đa thanh, trong đó có nhiều tuyến cốt truyện đan xen: cốt truyện về Mamelazov, về cuộc đời Sonia… nhưng trong đó tiêu biểu hơn cả là cốt truyện về Raxkonikov- một chàng sinh viên Luật nghèo ôm ấp trong mình tư tưởng người hùng muốn thay đối và đem đến cái mới cho xã hội.
Cuộc đối thoại của Raxkonikov và Sonia là một cuộc đối thoại quan trọng trong tác phẩm. Nó cho ta thấy nguyên nhân hành động tội ác, tuy nhiên để hiểu hơn về nội dung cuộc đối thoại, chúng ta cần nắm vững được tư tưởng của Raxkonikov được tác giả trình bày trong tác phẩm, đặc biệt là quan điểm phân chia con người ra thành hai loại của anh. Chính quan điểm này đã chi phối suy nghĩ và hành động của Raxkonikov. Raxkonikov không phân chia con người dựa theo tiêu chí giai cấp sang-hèn hay giàu-nghèo mà anh phân chia con người dựa theo quan điểm nhân học. Theo Raxkonikov trên thế giới này chỉ có hai loại người. Đó là người bình thường và kẻ phi thường:
-Người bình thường theo quan điểm của Raxkonikov là vật liệu dùng để sản sinh ra những kẻ như họ. Đó là những người có bản tính bảo thủ, yên lành, sống trong sự phục tùng và vốn thích phục tùng, có bổn phận phải phục tùng vì công dụng của họ là như vậy. Những con người này là chủ nhân của hiện tại, họ chiếm đại đa số và có nhiệm vụ bảo tồn thế giới, làm cho nó phát triển về số lượng. Raxkonikov gọi những người này là những “con rận”.
-Đối lập với loại bình thường là loại phi thường. Loại phi thường là những người chân chính, có thiên bẩm hoặc có tài nói lên một ý mới trong môi trường của mình. Đó là những người vượt qua pháp luật, là những kẻ phá hoại và có khuynh hướng phá hoại. Lương tâm có quyền cho phép họ gây ra nhiều tội ác . Tuy vậy họ là những người phải chịu đựng một nỗi buồn sâu rộng trên cõi đời này. Khác với loại bình thường, họ là chủ nhân của tương lai, có số lượng rất ít (1/1.000.000). Họ có nhiệm vụ thúc đấy thế giới và dẫn dắt nó đến mục đích: luôn đòi phá hủy hiện tại vì một tương lai tốt đẹp hơn. Napoleon là đại biểu của loại người phi thường này.
Phân chia con người thành hai loại, Raxkonikov cũng nhấn mạnh đến các biến tướng: Đó là những con người bẩm sinh có tính phục tùng nhưng vì một lí do nào đó có những người thích cho mình là những kẻ tiên phong hoặc có những người chỉ vượt lên mức bình thường một chút. Tiêu chí phân chia của Raxkonikov có hai điểm tựa: điểm tựa nhân học và mục đích cao đẹp, vì một tương lai tốt đẹp hơn.
Vì sao Raxkonikov lại có tư tưởng như vậy? Câu hỏi này sẽ được anh trả lời trong cuộc đối thoại với Sonia
Trong nỗi đau khổ, dằn vặt; trong sự khủng hoảng tâm lí trầm trọng và một nỗi cô đơn như biển cả, Raxkonikov đã tìm đến Sonia-người mà anh cảm thấy có một điểm gì đó tương đồng với mình. Trong tác phẩm có 4 lần tác giả để Raxkonikov và Sonia trực tiếp đối thoại và cuộc đối thoại quan trọng nhất chính là lời tự thú của Raxkonikov với Sonia. Để có cuộc đối thoại này, Raxkonikov đã trải qua một cuộc giằng xé ghê gớm “…trong tâm hồn chàng đã diễn ra một hiện tượng kỳ dị. Khi tới đến căn nhà của Kapernaumov, chàng bỗng thấy bủn rủn hắn ra vì kiệt sức và sợ hãi. Chàng dừng lại trước cửa, lòng ray rứt vì một câu hỏi kỳ lạ: "Có nên nói ai nói ai đã giết Lizaveta không?””. Và ngay từ đầu anh đã nói cho Sonia mục đích mình tới đây. Đó là cầu xin sự tha thứ, sự cứu rỗi một tâm hồn đang đau khổ: “Hôm qua chính tôi có nói với Sonia là tôi sẽ đến không phải để xin tha thứ, thế mà nay tôi lại hầu như mở đầu bằng một lời cầu xin tha thứ… Tôi nói đến Lugin và đến ý Chúa là để… xin tha thứ đấy Sonia ạ…”
Như trên đã nói cuộc đối thoại của Raxkonikov và Sonia cho ta thấy nguyên nhân hành động tội ác của anh. Cuộc đối thoại này là một trong những cuộc đối thoại hấp dẫn của tác phẩm bởi đây chính là lời giải đáp những thắc mắc tò mò của bạn đọc về tư tưởng của nhân vật cũng như hành động khó hiểu của anh: giết người để lấy của nhưng có vẻ không phải thế; giết người là vì người thân nhưng hình như là vì chính bản thân anh…
Cuộc đối thoại cho ta những lí do sau:
-Lí do đầu tiên là do hoàn cảnh gia đình, bản thân nghèo khổ: “mẹ anh hầu như chỉ có hai bàn tay trắng. Em gái anh có được ăn học chăng cũng là chuyện tình cờ, buộc lòng phải đi làm gia sư cho người ta”. Hoàn cảnh ấy khiến anh phải suy ngẫm rất nhiều, anh không muốn mình trở thành gánh nặng cho gia đình nghèo khổ và thiếu thốn ấy. Cảnh nhà đã vậy, trong cái xóm dân nghèo, nơi Raxkonikov ở, trước mắt chàng trai ngày tiếp ngày diễn ra bao cảnh đời lầm than, cùng quẫn. Anh thấu hiểu sâu sắc rằng không chỉ riêng mình, gia đình mình mà vô số những ngưòi khác, gia đình khác gần gũi thân quen cũng đang bị cái cơ chế của xã hội hiện hành đày đọa trong cảnh ngộ khốn quẫn, hèn kém, tủi nhục.
-Lí do thứ hai là do bản tính nhân hậu, giàu tình đời tình người của anh: Raxkonikov rất thương mẹ và em gái. Anh muốn tạo được một cuộc sống ổn định về kinh tế để có thể bù đắp và lo lắng cho hai người thân của mình. Và không những thể, anh còn muốn giúp đỡ những con người nghèo khổ, bất hạnh trên cõi đời này: “Mà lẽ nào có thể đành tâm suốt đời thờ ở với mọi việc, quay mặt đi để khỏi thấy sự đời, quên cả mẹ mình, cam tâm để cho người ta xúc phạm tới em gái mình chẳng hạn?”. Điều này lí giải tại sao cuộc đối thoại của anh và Mamelazov (cha Sonia) ở đầu tác phẩm củng cố thêm tư tưởng của anh. Chính trong tác phẩm ta cũng thấy nhiều lần Raxkonikov hiện lên là một con người hào hiệp một cách vô tư. Một con người sống trong cảnh nghèo túng đến khốn khổ nhưng đã từng nuôi dưỡng một người bạn học đau ốm trong vòng nửa năm trời; đã từng nhịn đói ngày này qua ngày khác, bỏ những đồng xu cuối cùng trong túi ra để giúp gia đình Marmeladov lâm vào cảnh thương tâm, để giúp một cô bé hoàn toàn không quen biết bị kẻ gian lừa đảo. Lòng vô tư, hào hiệp ấy hài hoà với những đức tính khác trong nhân cách Raxcolnicov: khảng khái, cương trực, chân thật, quả cảm. Đức tính này của Raxkonikov khiến Sonia vô cùng sửng sốt khi biết kẻ giết Aliona và Lizaveta. Cô đã thốt lên khi biết sự thật này: “Nhưng chả nhẽ lại có thể như thế thật! Trời ơi, sự thật gì mà khủng khiếp thế! Ai mà tin được? Làm sao, làm sao mà anh, người đã đem cho những đồng tiền cuối cùng của mình, lại có thể giết người để lấy của!”
-Lí do thứ ba thúc đẩy Raxkonikov thực hiện hành động tội ác là tâm lí thích sống cô độc, Điều đó càng khiến cho tư tưởng anh có điều kiện phát triển và in sâu trong đầu anh như một sự cuồng tín
“Anh rút sâu vào trong xó như con nhện.”
“Em có biết rằng những trần nhà thấp lẽ tè và những căn buồng chật chội nó đè ép tâm hồn và trí tuệ con người ra sao không? Trời ơi, sao anh căm thù cái chuồng chó ấy đến thế! Thế nhưng anh vẫn không muốn đi ra khỏi”
Và trong căn phòng ngột ngạt, bức bối và khó chịu ấy Raxkonikov dành hàng giờ, hàng đêm để suy nghĩ mông lung về những giấc mơ li kì, có những khi là cơn ác mộng hãi hùng. Anh sống xa cách với mọi người và thậm chí là lìa tránh mọi người: “Đã từ lâu anh không nói chuyện với ai”. Trong con căn phòng mà tác giả đã ví với “chiếc quan tài”, có ai đó đã nhận xét rằng nó “tượng trưng cho sự cô thế tuyệt đối của con người giữa nhân gian” và “trong căn buồng-quan tài ấy Raxkolnikov trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần, khủng hoảng thế giới quan nhân đạo và “thai nghén” một ý đồ mới, phản nhân đạo”. Anh luôn tự coi mình là một kẻ khác biệt và luôn nung nấu trong tâm trí một suy nghĩ đơn độc, những căm uất về thực tại bất công và ước muốn tìm ra một lối thoát. Tâm lí này khiến cho Raxkonikov luôn cảm thấy cô đơn, không ai có thể hiểu mình. Ngay cả với Sonia, người mà trong lúc đau khổ nhất anh nói “tôi chỉ còn mỗi mình em nữa thôi” nhưng anh cũng cảm thấy “em sẽ không hiểu gì đâu”

-Lí do thứ tư là anh muốn trở thành một người phi thường có thể cứu giúp bản thân và xã hội: “anh muốn làm một Napoleon, cho nên anh giết người”. Ước muốn trở thành một “siêu nhân” giúp Raxkonikov vượt qua những luân lí hèn nhát thông thường và đi đến một kết luận:
“…ai có một trí tuệ và một tinh thần vững mạnh thì kẻ đó chính là chúa tể của họ! Ai có thừa quả cảm, thì kẻ đó có lý đối với họ. Ai có gan nhổ toẹt vào tất cả, thì kẻ ấy là người cầm cân nấy mực”
Chí hướng của Raxkonikov chính là mục tiêu dành lấy địa vị là chú tể nhân gian như Napoleon để cứu giúp bản thân và nhân loại, mang hạnh phúc đến cho loài người

-Lí do thứ năm cũng là lí do quan trọng nhất, đó là Raxkonikov muốn biết mình là ai-một vấn đề khiến rất nhiều người suy ngẫm và trăn trở. Ở đây, Raxkonikov dường như đã gạt bỏ đi những lí do trước mà anh đã thổ lộ. Raxkonikov nói: “tôi không đến nỗi đói đến thế… quả nhiên tôi có muốn giúp mẹ, nhưng… cũng không hẳn như thế…”
“…giá tôi giết người vì đói,… thì bây giờ… tôi sẽ sung sướng lắm!”
“…anh muốn giết người không phải biện luận, giết vì mình, cho mỗi một mình mình thôi! Trong vấn đề nầy anh không muốn dối trá, dù với bản thân cùng vậy. Anh giết người không phải để giúp mẹ - đó chỉ là chuyện nhảm?Anh giết người không phải để nắm lấy phương tiện và quyền hành rồi đứng ra làm kẻ ban ơn cho nhân loại. Nhảm hết! Anh chỉ giết thôi; giết cho mình, cho mỗi mình mình, còn như sau đó có trở thành ân nhân của ai không hay suốt đời như một con nhện giăng lưới bắt hết mọi người để hút lấy máu tuỷ của họ, thì lúc ấy đối với anh chắc chẳng có gì quan trọng hết! Và cái chính là khi anh giết không phải anh cần tiền”
Raxkonikov trăn trở:
“…anh có phải là một con rận như mọi người khác, hay là một con người? Anh có thể vượt qua trở lực hay không? Anh có dám cúi mình xuống nắm lấy quyền lực hay không? Anh là một con sâu bọ run rẩy, hay là kẻ có quyền.”
Những lời thổ lộ của Raxkonikov cũng cho ta thấy tâm lí khủng hoảng, nỗi cô đơn của anh. Con người ấy dường như luôn sống trong trạng thái thiếu sự bình ổn trong tâm hồn. Đặc biệt là sau khi gây ra hành động tội ác, Raxkonikov càng muốn xa lánh mọi người, kể cả những người thân yêu và gần gũi nhất. Anh luôn căng thẳng, dễ bị kích động mỗi khi ai đó nhắc đến một chi tiết nào đó có liên quan đến hành động của mình theo kiểu “có tật giật mình”. Điều này đã khiến Raxkonikov, mặc dù đã thực hiện hành động một cách trót lọt nhưng vẫn bị nghi ngờ và bị phát hiện
Trở lại với lí do Raxkonikov muốn biết mình là ai, ta có thể thấy hành động giết người của anh là để thể nghiệm tư tưởng “anh chỉ muốn tỏ ra mình có gan làm thôi” và để xem xem “anh có phải là một con rận như mọi người khác, hay là một con người?”. Bởi vì Raxkonikov muốn mình trở thành một người phi thường, một Napoleon có thể dẫm lên xác một người hoặc băng qua một con sông máu mà không hề hối tiếc, miễn là đạt được mục đích cứu giúp nhân loại. “Cái giáo lý đen tối ấy đã trở thành tín ngưỡng và luật pháp” của Raxkonikov. Raxkonikov giết người không phải vì chuyện cơm áo, anh cần nhiều tiền nhưng tiền chỉ là phương tiện không phải là động cơ chính của tội ác. Giống như Porfiri có lần đã nói rằng “anh ta nghĩ phải thực hiện một cuộc viễn chinh mà muốn viễn chinh phải có tiền”. Tội ác với Raxkonikov là cách để chiêm nghiệm tư tưởng, chính vì vậy anh đã trải qua một cuộc đấu tranh nội tâm quyết liệt. Đây là một cách để nhân vật nhận thức đúng đắn về vị trí bản thân: anh là con người phi thường hay tầm thường. Để thực hiện tội ác trong sự cho phép của lương tâm, Raxkonikov muốn chiến thắng chính mình, vượt qua những trở ngại, rào cản của lương tâm mà anh coi thường và khinh bỉ
Nhưng Raxkonikov đã không đạt được mục đích đó, anh có gan giết người, có gan thực hiện tư tưởng nhưng không thể bảo vệ được tư tưởng đó. Anh không thể thờ ơ, dửng dưng mà rơi vào khủng hoảng tâm lí trầm trọng. Tội ác trở thành một gánh nặng tâm lí, một cảm giác ghê tởm với bản thân. Hình ảnh cái chết rùng rợn của Aliona ám ảnh anh. Tội ác diễn ra nhưng tư tưởng chưa được giải quyết, nhân vật rơi vào bi kịch của sự không thỏa mãn. Và Raxkonikov thú nhận “tôi cũng là một con rận như mọi người thôi!”
Thực chất tư tưởng của Raxkonikov là triết lí sùng bái cá nhân, sùng bái quá đáng cái tôi để dẫn đến một sự nổi loạn chống lại mọi luật lệ và các chuẩn mực đạo đức, cho rằng bậc siêu nhiên thì mọi cái đều được phép làm, điều đó thể hiện một sự cuồng tín. Đằng sau tư tưởng là hành động giết người và đằng sau hành động đó là sự dằn vặt và day dứt. Nhưng tuyệt nhiên Raxkonikov day dứt không phải vì cảm thấy tội lỗi, vì nhận thấy hành động của mình là một tội ác và rằng mình đã sai lầm “Còn mụ già ấy thì quỷ nó giết chứ không phải tôi…”, “Anh chỉ giết một con rận thôi, Sonya ạ, một con rận bẩn thỉu, vô dụng, nguy hại.” Raxkonikov chưa bao giờ coi hành động của mình là tội ác, anh khổ sở bởi vì anh nhận thấy mình chỉ là một thằng hèn, thấy “xấu hổ kinh người” bởi vì đã không dũng cảm bảo vệ tư tưởng và hành động thể nghiệm tư tưởng của mình đến cùng. Raxkonikov nhận ra mình không thể trở thành một Napoleon. Ngay khi anh đặt câu hỏi “giá Napoleon ở vào cảnh ấy, ông ta có làm hay không?” và anh tự trả lời “anh đã cảm thấy rõ ràng mình không phải là Napoleon…”. Anh đã thất bại trên con đường thể nghiệm tư tưởng của mình. Một sự thất bại đau đớn, nó khiến Sonia phải thốt lên “bây giờ trên đời không còn ai bất hạnh hơn anh nữa!”. Tấn bi kịch của Raxkonikov bắt nguồn từ sự căm ghét trật tự xã hội nhưng lại không thể vượt qua được nó. Nỗi nhức nhối ở đây ngày càng xót xa, Raxkonikov cảm nhận sâu sắc tự mình đã hủy diệt những quan hệ giữa mình với mọi người, đã chia lìa hẳn với mọi người kể cả những người thương yêu, ruột thịt. Khi vung búa lên giết bà già cầm đồ khốn khổ đó, đâu phải chỉ là giết bà ấy mà cũng là vung búa lên đập tan tành tính người của chính mình. Trong một lần đối thoại gay gắt, Raxkônnhikôp đã thốt lên: “Ta đã giết không phải một người, ta đã giết một nguyên lí”. Tư tưởng siêu nhân đã xô đẩy Raxkônnhikôp đến chỗ sát hại ngay trong bản thân cái nguyên lí nhân tính, nhân ái trong anh.
Tất cả những nguyên nhân trên cho ta hiểu vì sao một con người hào hiệp, có những đức tính tốt đẹp như Raxkonikov lại phạm phải trọng tội giết đến hai mạng người. Raxkonikov đã giết người với mục đích thể nghiệm tư tưởng. Ở con người có những suy nghĩ khác biệt với mọi người này được cấu thành bởi sự kết hợp nghịch lý những phẩm chất dường như không thể dung hoà với nhau: “tột mực ích kỷ đi đôi với tột mực vị tha; tàn nhẫn đến quái ác đi đôi với hiền từ đến mềm yếu; kịch liệt khinh ghét con người nhưng lại nhiệt thành thương yêu con người; ngang ngược chà đạp lên công lý mà lại tha thiết hướng về công lý”. Ở Raxkonikov tồn tại một khối mâu thuẫn giữa con người và tư tưởng không thể giải quyết nổi. Nó như một chứng tích đau khổ của con người trên con đường vươn tới “miền đất Thánh”
Cuộc đối thoại trên đã mở ra cho ta thấy tâm lí vô vùng phức tạp của con người và đằng sau đó là biệt tài miêu tả, thể hiện tâm lí nhân vật của nhà văn đại tài Đostoievski. Nhà văn không chỉ cho ta thấy tâm lí, tư tưởng của nhân vật Raxkonikov mà còn mở ra một tâm hồn trinh bạch, trong trắng của Sonia-người phụ nữ mà trong lúc khủng hoảng nhất Raxkonikov đã tìm đến như để cứu rỗi cho tâm hồn mình.
Tâm lí của Sonia không phức tạp như Rakonikov, cũng không nhiều biến động như anh. Trong suốt cuộc đối thoại, Sonia chủ yếu đóng vai trò lắng nghe, lời thoại của cô rất ít và đó thường là những lời cảm thán cùng với một tâm trạng đau khổ đến tột độ. Cô đã trao cho Raxkonikov cây thánh giá như biểu tượng của sự cứu rỗi: “Chúng ta sẽ cùng đau khổ, thế thì hãy cùng đeo giá thập tự!”. Ở Sonia, sự yêu thương người khác là mục đích sống cao nhất để cô tiếp tục sống. Sonia được xây dựng là một cô gái điếm nhưng mang trong mình một tâm hồn thánh thiện. Raxkonikov tìm đến Sonia để lấy lại niềm tin nơi Chúa, tin vào con người và cuộc sống. Cô đòi hỏi Raxkonikov sự chuộc tội để đi đến cứu rỗi. Cô không ghê tởm và xa lánh anh. Lời khuyên tự thú của Sonia có ý nghĩa: chịu sự trừng phạt của tòa án pháp luật nhưng lại được sự giải thoát của tòa án lương tâm
“Đến với Sonya, chàng đã cảm thấy là tất cả niềm hy vọng, là lối thoát duy nhất của mình; chàng muốn trút bớt dù chỉ một phần những nỗi thống khổ của chàng…”
Theo Đoàn Thị Việt Nga trong cuốn “đối thoại nghệ thuật trong tiểu thuyết tội ác và trừng phạt của Dostoievski” thì đối thoại trong tiểu thuyết này có số lượng rất lớn, mỗi đối thoại thường dài và chứa đựng nhiều thông tin. Đặc biệt trong tác phẩm này tác giả sử dụng nhiều dạng thức đối thoại: đối thoại trực tiếp, đối thoại dẫn theo lời kể của tác giả, đối thoại nội tâm, đối thoại không lời và tiểu đối thoại (đối thoại trong độc thoại). Đoạn đối thoại của Raxkonikov và Sonia cũng phần nào cho ta thấy được những đặc điểm đó.
Đối thoại giúp con người thể hiện được suy nghĩ, tư tưởng và tình cảm của mình. Cuộc đối thoại của Raxkonikov và Sonia cho ta thấy “tội ác và trừng phạt”. Tội ác thể hiện ở lời tự thú, ở những nguyên nhân và động cơ gây án. Hình phạt là những đau khổ, day dứt, sự khủng hoảng đến cực độ trong tâm trí nhân vật cũng như nỗi cô đơn mà anh đang phải chịu đựng khi tự tách mình ra khỏi thế giới này. Không những thế qua cuộc đối thoại này ta cũng thấy được tư tưởng và tâm lí của Raxkonikov. Dostoievski đã đi vào những ngõ sâu xa nhất trong tâm hồn con người để miêu tả một cách sâu sắc và rất thành công tâm lí phức tạp của nhân vật-một con người “bí ẩn” mà mỗi thế hệ, mỗi trào lưu, mỗi độc giả lại có cách đánh giá khác nhau.

Thứ Năm, 20 tháng 10, 2011

Ba người khác.Tô Hoài

Những đặc sắc trong tiểu thuyết
“Ba người khác” của nhà văn Tô Hoài
Ra đời năm 1992 nhưng phải đến đầu năm 2007 mới được xuất bản, tác phẩm “ba người khác” của Tô Hoài được coi là “một tiểu thuyết cho đến giờ phút này là ấn tượng nhất về sự kiện cải cách ruộng đất” (Lại Nguyên Ân). Cuốn sách giúp ta nhận thức được chiều sâu, uẩn khúc của những tai ách mà cuộc cải cách ruộng đất để lại. Có thể coi đây là một trong những tác phẩm đặc sắc của Tô Hoài trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ của ông.
Để tạo nên sự đặc sắc của một tác phẩm văn học, cần rất nhiều yếu tố (thuộc cả nội dung lẫn nghệ thuật). Tuy nhiên ở mỗi tác phẩm lại có những yếu tố nổi trội riêng. Yếu tố đó phải tạo cho tác phẩm một sự độc đáo, một nét riêng biệt, một sức ám ảnh mà không phải tác phẩm nào cũng có. Tiểu thuyết “ba người khác” của nhà văn Tô Hoài cũng không ngoại lệ. Tác phẩm mở ra trước mắt ta một tấn bi kịch hãi hùng của một vùng quê đang yên lành bỗng chốc chìm ngập trong các cuộc đấu tố, tranh giành, oan khốc và đẫm máu. “Cuốn sách thể hiện sự dũng cảm và tư cách công dân của nhà văn Tô Hoài” (Hoàng Minh Tường) khi tái hiện lại một thời kỳ lịch sử mà chính quyền không bao giờ muốn nhắc đến.
Đề tài về cuộc cải cách ruộng đất miền Bắc một thời có lẽ không còn mới mẻ. Chính vì thế để không dẫm lên bước chân những người đi trước, Tô Hoài đã khai thác đề tài này ở một góc độ khác. Nhà văn không ngợi ca, không viết về thành tựu của cuộc cải cách, càng không phải viết dưới tư cách một nạn nhân mà góc độ tiếp cận vấn đề của Tô Hoài khiến bạn đọc bất ngờ: một người trong cuộc, với tư cách một “tội nhân”-những người trực tiếp gây ra sự thất bại, gây ra những bi kịch đằng sau nhiệm vụ lớn lao, cao cả ấy. Chính vì thế, Trần Yên Hòa đã cho rằng tác phẩm là lời “sám hối” của chính nhà văn. Sự thực, chính Tô Hoài cũng từng tham gia công cuộc cải cách, điều đó giúp cho ông hiểu và tái hiện một cách chân thực những bất cập, những mặt trái của cuộc cải cách này-một sự kiện làm rung chuyển cuộc sống của những người dân Việt Nam.
Câu chuyện được kể dưới con mắt của một người trong cuộc: đội phó kiêm chánh án Bối. Anh ta vốn là dân thành phố, trôi trôi nổi trong chiến tranh, rồi giữ một chức coi kho. Khi ở Việt Bắc, Bối đã mấy lần trốn được đi cải cách nhưng về Hà Nội thì anh ta không trốn được nữa. Bối trở thành anh đội dù không biết gì về đồng ruộng, về nông thôn.
Với “ba người khác”, Tô Hoài đã dựng lên một bức tranh cụ thể, chân thực về cải cách ruộng đất ở miền Bắc một thời, cụ thể là những mặt trái của nó. Tác phẩm không chỉ tái hiện vấn đề ở một địa điểm cụ thể (thôn Chuôm, thôn Am…) mà nó còn khái quát được cả công cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc với tất cả sự nghiệt ngã và những nỗi đau thương. Tuy nhiên nhà văn không chú trọng vào việc vẽ lại diện mạo của cuộc cải cách mà đi sâu vào khía cạnh con người qua những nét sinh hoạt, những tác vụ xoay quanh họ. Tô Hoài đã dám viết lên cái dã man, cái vô nhân tính của những người tham gia cải cách và theo Lại Nguyên Ân, đây là một cách “ giải toả cho một trong những chấn thương của xã hội”. Theo ông “sự kiện cải cách ruộng đất để lại một chấn thương trầm trọng ai cũng biết, nhưng những người giữ quyền ăn quyền nói ở xã hội ta lại muốn xoá đi bằng cách cấm mọi người nhắc đến. Và đó là một giải pháp sai lầm hiển nhiên, vì các chấn thương tinh thần không thể được chữa khỏi bằng bắt buộc người ta im lặng; ngược lại, chỉ bằng việc thường xuyên nhắc nhớ, ôn lại, phân tích nguồn cơn, tính đếm thiệt hại…mới là phương cách tốt, chẳng những làm nguôi chấn thương mà còn đề phòng khả năng lặp lại những tai hoạ tương tự cho cộng đồng.”
“Ba người khác” là ba anh đội: đội trưởng Cự, đội phó kiêm chánh án Bối, đội viên Đình. Cả ba tham gia cải cách, mỗi người một tính cách nhưng cả ba đều không hiểu biết gì về nông thôn, nông dân và sự thật đây là ba gã lưu manh theo ba kiểu khác nhau. Khi về cải cách, họ bộ lộ sự tham lam, họ nhận thức được sự đúng-sai vậy mà vì sức ép thành tích, họ đều tỏ ra vô trách nhiệm (đưa trung nông lên địa chủ để đấu tố cho đạt chỉ tiêu cấp trên đề ra), đều hủ hóa…Sau cuộc cải cách, ba anh đội đã trở thành “ba người khác”, “khác” với chính bản thân họ, “khác” vì cả ba con người ấy đều trở nên tha hóa, chẳng ai còn nguyên vẹn, tử tế. Họ cải cách mọi người, cải cách mọi nhà, cải cách mọi vùng quê nhưng không cải cách chính bản thân mình. Dường như sự xuất hiện của họ khiến cuộc sống ở vùng quê được cải cách trở nên hỗn loạn hơn. Tất cả bị bao trùm bởi một không khí ngột ngạt, bức bối vì những cuộc đấu tố đẫm máu, dựng rạp xử án, sự tranh giành “chiến lợi phẩm” sau khi đấu tố địa chủ…Thực chất của cuộc cải cách ruộng đất chỉ làm theo hình thức để báo cáo lên trên. Có những thôn không tìm ra địa chủ để đấu tố, bị cấp trên phê bình, đội bèn đưa trung nông lên địa chủ cho đạt chỉ tiêu. Chỉ riêng chuyện đó đã gây ra không biết bao nhiêu bi kịch thảm thương.
“Cải cách ruộng đất” khiến con người, từ những người cải cách đến những người được cải cách hiện lên với tất cả sự bản năng của mình: tham lam, cơ hội... Sự bản năng ấy, được tác giả chú trọng đặc tả khi nói về tội “hủ hóa” của ba anh đội. Trong tác phẩm, có rất nhiều trang tác giả viết về vấn đề này. Những chuyện tình tội lỗi (giữa Bối và Đơm, Bối và Duyên, Cự và Đơm…) được kể bằng thứ “ngôn ngữ chính xác, khoái cảm hả hê, tâm đắc”. Những cảnh hoang dâm ấy không khỏi tạo cho người đọc một ấn tượng về sự rùng rợn. Những con người luôn miệng lên án cái tội hủ hóa lại chính là những kẻ hủ hóa. Đó là một anh Bối có thể làm tình cô Đơm ngay trước mặt một bà mẹ tàn tật, làm tình cô Duyên bên một ông bố già và điếc, có thể “quần” nhau với cả một đám nữ dân quân…
“Ba người khác” cũng chính là ba cuộc đời. Tác giả không những tái hiện chân dung, tính cách của họ trong cuộc cải cách với tất cả sự cơ hội, tham lam, sự tha hóa mà nhà văn còn cho ta biết về kết cục của ba con người ấy: đội viên Đình lang thang, phiêu bạt cùng vợ con vào Lâm Đồng; đội trưởng Cự vào Nam, chiêu hồi rồi bị đặc công ta giết; đội phó Bối thì bị vợ bỏ, làm nghề bơm xe sống qua ngày. Dường như đây là cái giá mà họ phải trả sau khi gây ra bao nhiêu tội lỗi và những bi thương.
Một sự đặc sắc nữa của tác phẩm là giọng kể của nhân vật. Mặc dù tiếp cận dưới góc độ một “tội nhân” nhưng trong tác phẩm này lại được kể bằng một giọng “bình thường hóa tội ác”. Nhà văn chỉ tả và thuật. Giọng văn dửng dưng như mình là người ngoài cuộc, như mình không hề can dự. Không có chố nào nhân vật “tôi” tỏ ra đau khổ hay trăn trở, dằn vặt vì những tội lỗi mà mình gây ra. Thậm chí sau khi đội cải cách về sửa sai, Bối còn ngơ ngác không nhận thấy được đâu chỗ sai của mình. Ở đây ta thấy, Tô Hoài đã đặt nhân vật của mình ngang tầm thời đại (vì ngang tầm thời đại nên không nhận ra điểm sai), điều này làm cho tác phẩm giàu tính chân thực hơn. Nó tạo cho bạn đọc niềm tin rằng những gì mình đọc là sự thật, sự thật được tái hiện qua một người trong cuộc, một người chứng kiến. Có ý kiến cho rằng nhân vật Bối là “chân dung nhân vật tội đồ hoàn hảo nhất từ trước tới nay trong văn chương Việt Nam”. Bản chất tha hóa của anh ta không chỉ bộc lộ khi tham gia cải cách mà trong cả cuộc sống sau này. Anh ta không những “bình thường hóa tội ác” mà còn trút hết mọi tội ác trong cuộc cải cách lên đầu đội trưởng Cự-một người đã chết, không còn có cơ hội để thanh minh, biện hộ.
Tác phẩm vừa có thể coi là một cuốn tiểu thuyết, vừa có thể coi là một cuốn hồi ký, hay nói chính xác hơn là một cuốn hồi ký viết dưới dạng tiểu thuyết. Dưới góc độ một cuốn hồi ký, Tô Hoài đã cho ta một cái nhìn mới về ông: một con người dám “kể tội” mình. Nếu trước đó, ta thấy Tô Hoài thành công với những sáng tác về đề tài miền núi, phong tục tập quán, thành công với việc viết về các con vật thì “ba người khác” nhà văn thành công với một vấn đề mang tính chính trị (cải cách ruộng đất)- một vấn đề nhạy cảm mà cho đến tận bây giờ ít ai đề cập đến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm này, phải 15 năm sau, tính từ thời điểm ra đời mới đến được với đông đảo bạn đọc và được in thành sách. Nhà văn từng phát biểu “tôi cho viết hồi ký là khó khăn hơn cả sáng tác. Bởi đó là một cuộc đấu tranh tư tưởng để viết ra…Đây là cuộc mổ xẻ toàn diện, không phải nhẹ nhàng và chỉ có hứng thú”. Vì thế có thể nói rằng “ba người khác” thể hiện sự dũng cảm của nhà văn.

So với sự nghiệp sáng tác đồ sộ của Tô Hoài, nghệ thuật của tiểu thuyết “ba người khác” có lẽ không nổi bật. Nhà văn vẫn sử dụng giọng văn đầy tính hài hước và đi sâu và khai thác những chi tiết nhỏ nhất bằng một cái nhìn “săm soi”. Nhưng đây thực sự là một tác phẩm có giá trị, giá trị và sự đặc sắc của nó nàm chủ yếu ở phần nội dung, ở khía cạnh tính chân thực của nó. Tô Hoài đã dám nói lên sự thật, một sự thật trần trụi đến ghê tởm của những ngày tháng cải cách ruộng đất, dù tác phẩm chỉ là “một mảng nhỏ trong sự kiện lớn”.

Nhà mẹ Lê-TL

Cái nhìn nhân đạo của Thạch Lam trong truyện ngắn “nhà mẹ Lê”



Không ồn ào, sôi nổi; không mạnh mẽ, táo bạo, Thạch Lam là con người tinh tế và nhạy cảm trước mọi biến động tinh vi và nhỏ nhặt của cuộc sống. Nhà văn thiên về cảm giác này mang đến cho văn học Việt Nam những trang viết nhẹ nhàng, đầy chất thơ và lắng đọng bao xúc cảm. Là thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn nhưng Thạch Lam có một cách viết khác. Thạch Lam không thi vị hóa cuộc sống và miêu tả những mối tình lãng mạng như Nhất Linh, Khái Hưng mà hướng lòng mình về phía những con người nhỏ bé, bất hạnh để cảm thông với tấm lòng thành thực và cái nhìn nhân đạo. Truyện ngắn “ nhà mẹ Lê ’’ có thể chưa phải là tác phẩm xuất sắc nhất của Thạch Lam nhưng thể hiện sâu sắc quan điểm nhân đạo của nhà văn tài hoa này.

Có ai đó đã nói rằng Thạch Lam xuất hiện trên văn đàn như một sự “hòa giải giữa thơ và văn xuôi’’, giữa lãng mạn và hiện thực. Thạch Lam có khả năng diễn tả những biến thái tinh vi nhất trong lòng con người và sự vật. Đến với văn Thạch Lam, bạn đọc đã quen đến với một thứ truyện ít có cốt truyện, không có những tình tiết ngặt ngoèo mà có lúc chỉ là diễn tả trạng thái con người trong một phút giây, một khoảnh khắc ngắn ngủi. Thạch Lam trân trọng cuộc sống, trân trọng những vẻ đẹp bình dị trên cõi đời này. Bình dị mà sâu sắc, chứa chan tình nhân ái, Thạch Lam hướng người đọc tới sự thanh cao của cái đẹp, cái thiện.
Là nhà văn lãng mạn nhưng nhiều truyện ngắn của Thạch Lam thiên về khuynh hướng hiện thực. Thế giới nhân vật của Thạch Lam phong phú và đa dạng, không chỉ là những người thuộc tầng lớp tiểu tư sản mà còn là những người lao động nghèo khổ, bất hạnh. “Nhà mẹ Lê” là truyện ngắn viết về những người nghèo khổ sống bên lề xã hội, ở đó ta bắt gặp cái nhìn nhân đạo- cái nhìn đầy yêu thương có sự cảm thông với những kiếp người nhỏ bé, tha hương. Tác phẩm là câu chuyện về cuộc đời những người dân ngụ cư mà nhân vật chính là mẹ Lê cùng mười một đứa con. Họ sống nghèo khổ trong một căn nhà chật hẹp và tồi tàn. Bà mẹ phải làm lụng vất vả nhưng vẫn không đủ nuôi các con. Những ngày cực nhọc nhất của những người nông dân lại là những ngày vui sướng của bà mẹ nghèo khổ ấy vì lúc đó mới có người mướn làm. Những buổi tối cả nhà mẹ Lê xúm xít quanh nồi cơm bốc khói là những ngày hạnh phúc nhất. Nhưng những ngày như thế không nhiều. Mùa đông đến, ngoài đồng chỉ còn trơ cuống rạ, ao hồ không còn tôm tép để bắt, nguồn thức ăn của gia đình mẹ Lê không còn. Nhà mẹ Lê vốn nghèo khổ giờ càng túng quẫn hơn. Đàn con đói rét, không cầm lòng nổi trước cảnh tượng đó mẹ Lê một lần nữa tìm đến nhà ông Bá giàu có trong làng để vay gạo. Gạo vay không được, mẹ Lê còn bị ông Bá thả chó ra cắn. Được một người quen đưa về với vết thương máu chảy ròng ròng ,mẹ Lê lên cơn sốt nặng. Trong lúc mê man, người mẹ tội nghiệp ấy nhớ lại quãng đời bất hạnh và khốn khổ của mình. Kết thúc câu chuyện là cảnh mẹ Lê từ giã cõi đời để lại mười một đứa con bơ vơ, không nơi nương tựa, không biết đi đâu về đâu.
Câu chuyện khép lại với cảnh tượng đầy ám ảnh. Thạch Lam đã “lặng lẽ hướng ngòi bút về người nghèo với một niềm cảm thông thật sự chân thành”( Lại Nguyên Ân ). Không trào lộng như Vũ Trọng Phụng, không hài hước như Nguyễn Công Hoan, không triết lý như Nam Cao, Thạch Lam nhẹ nhàng và tinh tế. Nhà văn đã lặng lẽ đi vào những bi kịch nhân sinh để miêu tả tình cảnh thê thảm của những người nghèo khổ. Nói như vậy không có nghĩa chỉ Thạch Lam mới có cái nhìn nhân đạo về con người và cuộc sống. Bất cứ một nhà văn chân chính nào cũng mang trong mình tình thương với đồng loại chỉ có khác mỗi nhà văn lại có những cách biểu hiện riêng. Với Thạch Lam đó không chỉ là sự cảm thông mà còn là sự nâng niu, trân trọng những niềm vui bình dị của con người. Mẹ Lê có nghèo khổ nhưng trong cuộc sống người mẹ ấy vẫn có những niềm vui, niềm hạnh phúc riêng. Đó là những niềm vui rất nhỏ bé, đơn sơ, đời thường nhưng làm xao động lòng người.
Cùng viết về những số phận bất hạnh, cảnh đời của những người dân lao động nghèo khổ nhưng nếu những nhà văn hiện thực diễn tả sự tha hóa của họ thì điểm nhấn của Thạch Lam là ở những vẻ đẹp bình dị trong cuộc sống và tâm hồn con người. Thạch Lam “tả người nghèo mà không muốn cho độc giả thấy những mảnh rách, những mụn vá trên quần áo của họ” (Lại Nguyên Ân) mà nhà văn muốn làm nổi bật đời sống nội tâm vốn rất phong phú và đa dạng của mỗi con người. Nhà văn là người nghệ sĩ đi tìm kiếm cái đẹp, Thạch Lam cũng không nằm ngoài lẽ sống đó. Cái đẹp trong quan niệm của Thạch Lam không phải là cái đẹp phi thường như Nguyễn Tuân, cái đẹp cũng không ở một nơi xa xôi, trong cõi mộng thần tiên như đối với Thế Lữ, Lưu Trọng Lư…mà là cái đẹp của cuộc sống đời thường, của những tâm hồn bình dị, mộc mạc và tinh tế. Thạch Lam quan niệm “cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp ngang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường” và công việc của nhà văn là “phải hiểu cái đẹp ở chính chỗ mà người ta không ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức.”(theo dòng).
Thạch Lam dường như đã hóa thân vào nhân vật để cảm nhận những nỗi đắng cay trong cuộc đời của họ. Ta thấy cái nhìn độ lượng, thương cảm của nhà văn khi miêu tả căn nhà tồi tàn của mẹ Lê “chừng ấy người chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan đã gẫy nát”, mùa rét phải rải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm và tác giả so sánh cảnh tượng đó “trông như một ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc”. Để đặc tả sự nghèo khổ của nhà mẹ Lê, tác giả cho ta thấy “cách kiếm ăn’’ khổ cực và bấp bênh của bà mẹ này: “từ buổi sáng tinh sương mùa nực cũng như mùa rét bác ta phải trở dậy đi làm mướn cho những người có ruộng trong làng”. Ấy vậy mà đó là những ngày sung sướng nhất vì khi ấy còn có người mướn bác làm việc. Những con người sống với nghề nghiệp bấp bênh ấy trở nên tội nghiệp hơn khi những ngày mùa qua đi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ. Những khó khăn ấy không chỉ đến với riêng mẹ Lê mà với tất cả những người dân trong xóm ngụ cư nghèo khổ ấy. Đặc tả một khung cảnh đói khổ và buồn bã, tác phẩm dường như báo hiệu cho chúng ta thảm cảnh Ất Dậu .
Đói rét, nghèo khổ nhưng với Thạch Lam những con người trong “nhà mẹ Lê” trước bờ vực thẳm của cuộc đời không bị tha hóa, biến dạng. Giữa cái giá lạnh của cuộc sống họ “lặng lẽ, âm thầm chịu khổ một mình, không than thở với láng giềng hàng xóm bởi vì ai nấy đều biết cũng nghèo khốn như nhau”. Đây là một đặc điểm của các nhân vật trong sáng tác của Thạch Lam. Nhà văn luôn “chắt chiu cái đẹp” ấy tạo ra một thế giới nhân vật mà ở đó luôn âm thầm, lặng lẽ chịu đựng và hi sinh ( Tâm trong “cô hàng xén”, Liên trong “một đời người”…). Những con người ấy không dám thổ lộ nỗi khổ của mình phải chăng sợ làm tổn thương người khác? Họ âm thầm đồng cảm với nhau, lặng lẽ chia sẻ cùng nhau mà không có một phản ứng mạnh mẽ, một phản kháng quyết liệt nào về hiện thực tối tăm bao quanh mình.
Giữa cuộc sống tưởng chừng chỉ còn trơ trọi sự bi đát của những người khốn khổ, Thạch Lam với cái nhìn nhân đạo, với lòng trắc ẩn mênh mông vẫn tìm thấy ở cuộc sống nhếch nhác ấy những niềm vui, niềm hạnh phúc đời thường rất đáng trân trọng. Trong cuộc mưu sinh vất vả vẫn có những cảnh ấm cúng. Thạch Lam đã ghi lại những thoáng chốc, những lát cắt tâm trạng trong từng khoảnh khắc với những khung cảnh mang đậm phong vị Việt Nam. Đó là cảnh một buổi tối giá rét “mẹ con ngồi xúm quanh nồi cơm bốc hơi”, là những ngày nắng ấm hay những buổi chiều mùa hạ mẹ con ngồi chơi trước của nhà, là khi những người phố chợ nói đùa với bác Lê về đàn con đông đúc, là những đêm sáng trăng mùa hạ “cả phố bắc chõng ngồi ngoài đường…mọi người họp nhau nói chuyện, trẻ con nghịch chạy quanh các bà mẹ”. Trong khung cảnh mang đậm phong vị Việt Nam ấy họ quên đi cái cảnh “khổ sở, hèn mọn, ai ai cũng vui vẻ chuyện trò…” và cất lên những tiếng hát lanh lảnh “ngày xưa có anh Trương Chi...”. Thạch Lam đã bao bọc cuộc sống ấy bằng một khung cảnh thiên nhiên rất đỗi lãng mạn, hết sức mộng mơ: hình ảnh ánh trăng mùa hạ, hình ảnh “dưới bóng trăng những đá rải đường trông đẹp và lấp lánh sáng”,..Văn Thạch Lam khi miêu tả những cảnh tượng ấy lại đầy chất thơ và những dư vị ngọt ngào của cuộc sống. Đoạn văn đầy những âm thanh, những hình ảnh tươi vui,trong sáng. Cảnh tượng này, với ai đó có thể không có gì nhưng với Thạch Lam-con người có tâm hồn nhạy bén như dây tơ-lại viết lên được những trang văn dư ba và lắng đọng. Vẫn lặng lẽ, vẫn rấtThạch Lam dẫu “nhà mẹ Lê” là câu chuyện về những người nghèo khổ mang đậm khuynh hướng hiện thực. Nhưng hiện thực mà vẫn rất lãng mạn. Cái lãng mạn của Thạch Lam không phải là sự thi vị hóa cuộc sống mà là miêu tả cuộc sống một cách “thành thực”. Bất cứ con người nào đằng sau những khổ đau họ vẫn có những niềm vui, niềm hạnh phúc riêng dù rất nhỏ bé. Cuộc sống phong phú và đa dạng sẽ có những khoảnh khắc buồn, những phút thoáng vui. Thạch Lam là người quan sát tinh tế và miêu tả tinh vi những niềm vui nhỏ bé và giản đơn nhưng sâu sắc và đẹp đẽ ấy. Sự thành công này một lần nữa cho ta thấy tình yêu, sự trân trọng và nâng niu những vẻ đẹp trong cuộc sống của Thạch Lam. Những vẻ đẹp dẫu mong manh và lẩn khuất, nhỏ bé và khó kiếm tìm. Bạn đọc đã bao lần rung động trước sự nhẹ nhàng, đầy chất thơ của “dưới bóng hoàng lan”, xao động trước nỗi buồn man mác trong “cô hàng xén” lại một lần nữa cảm nhận điều đó trong “nhà mẹ Lê”. Với mỗi chúng ta, những điều thường nhât diễn ra trong cuộc sống này có thể trở nên nhàm chán, ta vô tâm không để ý đến, đọc văn Thạch Lam ta chợt nhận ra xung quanh mình có rất nhiều điều ý nghĩa. Chỉ có khác với chúng ta khi mất đi những điều đó rồi ta mới cảm nhận được. Thạch Lam không như vậy, nhà văn trân trọng nó khi nó đang hiện diện trên xứ sở này.
Nhân vật trong “nhà mẹ Lê” sống trọn vẹn với niềm vui và cả những nỗi buồn. Những con người ấy thiếu thốn về vật chất nhưng không thiếu thốn về tinh thần. Họ không cô đơn trong cuộc sống cũng không cô độc trong cuộc đời bởi họ luôn mang trong tâm hồn mình tình người ấm áp. Tình người đẹp đẽ ấy phải chăng xuất phát từ tấm lòng bao la của nhà văn dành cho những kiếp người nhỏ bé? Thạch Lam đã đưa họ đến gần nhau để những con người ấy không chỉ thấu hiểu mà còn chia sẻ và giúp đỡ nhau. Mẹ Lê khi bị chó nhà giàu cắn được đưa về nhà trong cơn đau vẫn xúc động nói “may gặp bác Đối, chứ không biết bao giờ mới lê về được đến nhà” và khi người mẹ ấy chết đi chính những người nghèo khổ ấy đã “mua cho bác một cỗ ván mọt, rồi đưa giúp bác ra cánh đồng, chôn vào bãi tha ma nhỏ đầu làng”. Họ quay trở về ái ngại và xót xa cho những đứa con tội nghiệp của người mẹ xấu số. Tác phẩm vì thế được bao trùm bởi tình yêu thương. Đó không chỉ là tình thương của những con người cùng cảnh ngộ trong truyện mà còn là tình thương của độc giả dành cho nhân vật và của chính nhà văn với “đứa con tinh thần”.
“Nhà mẹ Lê’ vừa mang yếu tố hiện thực vừa được khoác lên mình màu sắc lãng mạn. Thạch Lam không chỉ cảm thông mà còn trân trọng nhân vật của mình. Sự trân trọng ấy được biểu hiện từ cách gọi tên các nhân vật. Nhà văn không gọi nhân vật của mình là “thị”, “y”, “hắn” như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao… mà gọi một cách trân trọng,trìu mến “mẹ Lê”, “mẹ Đối”, “mẹ Hiền”. Xuyên suốt tác phẩm mẹ Lê được gọi là “bác”. Nó giống như đây là một câu chuyện kể về một người thân quên cùng một hoàn cảnh, cùng một tầng lớp trong xã hội. Câu chuyện vì thế được bao bọc bởi sự cảm thông, trân trọng và tình yêu con người. Thạch Lam đã hòa nhập vao dòng người khốn khổ để vui cùng niềm vui nhân vật, buồn cùng nỗi buồn của những đứa con tinh thần. Nhưng ý nghĩa tác phẩm không chỉ dừng lại ở đó. Thạch Lam điềm tĩnh, thâm trầm và nhẹ nhàng, nhà văn không thích cái gì đó mạnh mẽ và dữ dội nhưng không vì thế mà tác phẩm Thạch Lam thiếu sức tố cáo dù sức tố cáo đó không phải là vấn đề chủ đạo. Sức tố cáo trong tác phẩm Thạch Lam cũng rất Thạch Lam: nhẹ nhàng và sâu sắc. Thạch Lam không lên gân lên cốt mà để độc giả tự cảm nhận sau khi suy ngẫm về nhân vật. Cái chết của mẹ Lê- cái chết của một người lương thiện, một phụ nữ giàu đức hi sinh, một người mẹ hết lòng vì con- khiến bạn đọc day dứt khôn nguôi. Người mẹ tần tảo, suốt cuộc đời vất vả phải lãnh kết cục bi thảm (bị nhà giàu thả chó ra cắn chết). Trước khi chết, trong cơn mê sảng, người mẹ ấy hồi tưởng lại cuộc đời đầy đắng cay của mình : “…từ lúc bé đến giờ , chỉ toàn những ngày khổ sở, nhọc nhằn. cái nghèo nàn không biết từ bao giờ đã vào nhà bác, lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi; và từ đấy, nó cứ theo bác mãi. Nhưng giá cứ có người mướn làm thì cũng không đến nỗi. bác nhớ lại những buổi đi làm khó nhọc, những lúc vui vẻ được lĩnh gạo về cho con, những bữa cơm nóng mùa rét, những lúc thằng Hi và con Tý vui đùa giằng co chiếc bánh bác mua cho chúng.
Rồi đến những ngày đi mót lúa mỏi lưng trên đồng, nhặt những bông lúa thơm, những lúc vò lúa dưới chân…bác Lê nhớ lại cảm giác vui mừng khi thấy cạnh bông lúa sắc xát vào da thịt. Đấy còn là những ngày no đủ. Rồi đến những buổi chợ vắng, những ngày nhịn đói như hôm nay. Bác mơ màng thấy vàng son chói lọi trong nhà ông Bá, thấy nét mặt gian ác, tinh nghịch của cậu Phúc, con chó Tây nhe nanh chồm lên…” và kết thúc bằng một tiếng kêu thất thanh như dày vò chúng ta: “trời ơi! Sao tôi khổ thế này…”. Cuốn phim về một cuộc đời, Thạch Lam đã quay lại từ từ trong cơn mê sảng của nhân vật và kèm theo những phân trần như giải oan cho hoàn cảnh oan nghiệt ấy “ giá cứ có người mướn thì đâu đến nỗi…”. Thạch Lam một lần nữa thể hiện biệt tài của mình: diễn tả những biến thái, cảm xúc trong tâm hồn con người. Âm điệu từng câu văn chùng xuống, đoạn văn toát lên một tâm trạng… Nỗi khổ mà mẹ Lê thốt lên đâu phải chỉ là nỗi khổ về thân phận mình mà vì mẹ Lê nghĩ đến thân phận của mười một đứa con bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời không nơi nương tựa, bấu víu. Mẹ Lê trong những giây phút cuối của cuộc đời mình vẫn giàu lòng yêu thương, đức hi sinh. Nó khiến ta nghĩ đến ai đó đã từng nói rằng cái đẹp lớn nhất mà Thạch Lam mang đến cho mọi người là tình yêu vô hạn của những người phụ nữ hết lòng vì gia đình.

“Thạch Lam pha trộn chất bi đát cùng với chất thơ thành một thể tuyệt vọng mới, âu yếm trùm lên những thân phận không còn là phận người trước khi trở nên thây người. Cả truyện ngắn là một liều lượng pha trộn tuyệt vời đói khát với no đủ, yêu thương với ác nghiệt, hy vọng với tuyệt vọng qua những hình ảnh đẹp rướm máu, cái chết của mẹ Lê âm thầm dẫn đến những cái chết của mười một đứa con, tuy không nói ra, lại càng làm cho chúng ta cảm thấy bàn tay của tử thần sờ trán mỗi đứa nhỏ mỗi lúc một gần trong từng tích tắc còn lại.” (Thụy Khuê ). Thạch Lam với cái nhìn nhân đạo đã mang đến cho người đọc những day dứt khôn nguôi về một số phận, những cuộc đời. Những cuộc đời cứ chìm dần và mất hút vào trong bóng tối, không có tương lai, không một hi vọng…Thạch Lam đã lặng lẽ âm thầm phản ánh đời sống khó khăn của con người với cái nhìn đôn hậu và đầy thương cảm, nhà văn đã nâng niu từng vẻ đẹp đời thường giản dị với tình cảm của một con người trân trọng và yêu mến những giá trị của cuộc sống. Những điều đó không chỉ làm nên một dấu ấn đẹp trên văn đàn mà còn tạo nên sức sống lâu bền trong văn Thạch Lam.

Thạch Lam đã đến với người nghèo bằng cả tấm lòng của mình và bằng tình thương đồng loại. Sự thương cảm ấy, nó khác xa kiểu ban ơn của những nhà tiểu thuyết lãng mạn ngả vòng tay của mình cứu vớt những con người nhỏ bé. Thạch Lam vốn là một con người rất “thành thực”, “thành thực” trong cuộc sống và “thành thực” trong văn chương, có lẽ vì thế mà “đọc văn Thạch Lam ta thấy rất nhiều Thạch Lam trong đó”. Đọc văn Thạch Lam ta thấy cái nhìn nhân đạo của Thạch Lam về cuộc sống, về con người và “nhà mẹ Lê” là một biểu hiện của cái nhìn đầy trắc ẩn ấy.

Dưới bóng hoàng lan-TL

Đề bài: Phân tích truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” của Thạch Lam để làm rõ quan điểm nhân đạo của nhà văn này?

BÀI LÀM

1.Cuộc đời là dòng chảy trôi bất tận bởi vậy nó như một dòng sông chỗ nông chỗ sâu, chỗ hẹp chỗ rộng, có chỗ nước chảy xiết có khúc lại hiền hòa. Đời vì thế cũng có nhiều loại người, nhiều loại suy nghĩ và nhiều cách quan niệm về cuộc đời. Cái quan niệm cuộc đời ấy chi phối cách suy nghĩ hành xử của con người, đặc biệt đối với các nhà thơ nhà văn chân chính, cái nhìn về cuộc đời đi vào trong cách sáng tác của họ một cách rất đặc biệt trở thành những tư tưởng, quan niệm nghệ thuật mang đậm tinh thần nhân đạo, yêu thương con người và vì con người.
Thầy Nguyễn Đăng Mạnh đã viết trong cuốn “Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn”: tư tưởng nghệ thuật của một nhà văn trước hết là thứ tư tưởng “có tính tổng hợp cao rút ra từ toàn bộ tác phẩm của nhà văn. Nói cách khác đó là tư tưởng bao trùm cả sự nghiệp sáng tác của nhà văn, chi phối về căn bản toàn bộ thế giới nghệ thuật của ông ta. Nó tạo ra cho sự nghiệp ấy, cho thế giới nghệ thuật ấy tính thống nhất, tính hệ thống hay đúng hơn là tính chỉnh thể”.... và Thạch Lam là một trong số không nhiều những nhà văn Việt Nam có một quan niệm sáng tác định hình ngay từ tác phẩm đầu tay. Thạch Lam đã thể hiện quan điểm của mình trong cuốn tiểu luận “Theo dòng”: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thanh sạch và phong phú hơn”. Với Thạch lam, văn chương không phải là thứ thuốc ngủ u mê để ru người và tự ru mình quên đi nỗi đau hiện tại, trái lại, viết văn với ông là một cách nhìn và đối diện với thế giới nhận ra những thứ giá trị và nhận ra cả những thứ rác rưởi của cuộc đời. Thạch Lam vẫn “tố cáo” và mong muốn “ thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác” song rất đặc biệt, cách làm của ông không phải là chỉ ra những con đường tối tăm bẩn thỉu nhất của cuộc đời, không đưa ra một loại nhân vật điển hình tàn bạo như Nghị Hách của Vũ Trọng Phụng, như Nghị Quế của Nam Cao, cũng không có nhân vật nào giống với Chí Phèo-Thị Nở..... những nhân vật chính trong truyện Thạch Lam thường rất đẹp, đẹp từ ngoại hình đến tính cách, đẹp như Thúy Kiều bước ra từ cõi thơ, đẹp như cô Tấm bước ra từ vỏ thị trong những câu chuyện của “ngày xửa ngày xưa....”. Bên cạnh một thế giới của “những phố huyện nghèo nàn, xơ xác, buồn vắng hoặc những vùng ngoại ô tối tăm của Hà Nội, với những linh hồn nhỏ bé tội nghiệp, lặng lẽ sống với những ý nghĩ, những ước mơ, những cảm giác hiền lành, nếu không phải là lo lắng, ngơ ngác nhìn về một tương lai mù mịt”.... truyện ngắn Thạch Lam còn có một thế giới huyền ảo và cổ tích, xa xăm và mong manh cho chúng ta nhìn vào những góc khác nhau của cuộc đời để “lòng người được thanh sạch và phong phú hơn”.
2.Vâng, đến với Thạch lam là ta chạm vào “thế giới của hồi ức, của kỉ niệm, từ một dĩ vãng chưa mấy xa xôi- một dĩ vãng đẹp, trong trẻo, ngọt ngào mà ai cũng có-một dĩ vãng không nằm hoàn toàn trong quá khứ , nó có cả một phần của hiện tại”. Điều này đặc biệt thể hiện trong truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” của ông, một truyện ngắn dường như đi chệnh quỹ đạo của tập “Sợi tóc” với những đoản thiên mang màu sắc hiện thực như “Đói”, “Tối ba mươi”, “Sợi tóc” và “Tình xưa” . “Dưới bóng hoàng lan” là câu chuyện duy nhất trong tập truyện ngắn này bộc lộ một kết thúc tươi sáng hơn dù rất mơ hồ.
Câu chuyện về chàng thanh niên tên Thanh trở về với căn nhà xưa, với người bà hiền như trong truyện cổ, cảnh vật dường như vẫn vậy và dường như Thanh cũng chưa bao giờ đổi khác. Anh thấy lòng mình thanh thản và nhẹ nhõm. Gặp lại cô hàng xóm ngày xưa, cô bé vẫn đến nhặt hoàng lan trong vườn nhà anh để cài lên tóc và luôn có cảm xúc “những ngày em đến đây hái hoa, em nhớ anh quá”… Thanh thấy một cái gì rung lên rất khẽ, một chút gì mơ hồ tồn tại, không rõ là gì nhưng anh có cảm giác “có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây, khiến chàng vương phải” có lẽ đó là chút tình mới chớm mong manh chăng? Một thứ tình thanh cao, chân thực và thơm tho như mùi hoa hoàng lan thoang thoảng …. “Dưới bóng hoàng lan” không phải một mối tình lãng mạn tha thiết, nhưng là một chuyện tình ngây thơ, trong trắng, chất phác, hồn nhiên nhẹ nhàng và trong vắt trong cảnh thanh cao, thơm ngát của thôn quê khiến ta mơ màng như lạc vào cõi thần tiên để sáng hôm sau Thanh trở lại tỉnh mang theo một chút trong veo của tình người và mơ hồ một ý nghĩ hạnh phúc về tương lai....... Truyện của Thạch Lam thường viết về những việc nhỏ nhặt, tầm thường tưởng như không có gì để kể. Đó không phải là những tình huống cô đặc, chói sáng để tạo ra những bùng nổ giàu kịch tính mà chỉ đơn giản là những nhát cắt, những khoảnh khắc của tâm trạng và cảm xúc, với Thạch Lam đó là những thời khắc lóe sáng , ẩn chứa những tiềm năng tâm lí to lớn, bất thường. Nó như một giao điểm hội tụ, lắng đọng hoặc đánh thức những cảm xúc, những suy nghiệm còn đọng chìm trong cõi lòng sâu thẳm và làm dấy lên những rung động tinh tế, nhẹ nhàng, Thạch Lam đã “ngắt câu bằng màu, chấm câu bằng nốt nhạc, chuyển đoạn bằng hình ảnh” ….chừng ấy đủ để khẳng định “Dưới bóng hoàng lan” là những trang văn thanh tao và trang nhã nhất trong văn học Việt Nam!
Nhưng dường như “Dưới bóng hoàng lan” không chỉ là câu chuyện về tình yêu mong manh chớm nở mà hình như Thạch Lam còn gửi gắm một cái gì sâu sắc hơn, một cái gì đó khiến cho soi vào người ta thấy lòng mình thanh sạch và phong phú hơn….
Thanh trở về như một hành trình trở về tuổi thơ, trở về những gì trong trẻo nhất mà hai năm qua anh để quên nơi phố thị ồn ào.Thạch Lam để cho chúng ta đi cùng Thanh vào thế giới của ngày xưa với ngôi nhà vẫn y nguyên như ngày anh đi, với con đường lát gạch Bát Tràng phủ rêu xanh mát, vẫn “những vòng ánh sáng lọt qua vòm cây xuống nhảy múa theo chiều gió”, căn nhà mát mẻ và im ắng mà khi bước chân vào anh có cảm giác “tựa như bao nhiêu sự ồn ào ở ngoài kia đều ngừng lại trên bậc cửa”. Căn nhà là một thế giới khác của Thanh, một thế giới yên bình, thanh khiết tựa hồ như chốn bồng lai khác hẳn với bao nhiêu ồn ào hỗn loạn của cuộc đời ngoài kia. Thanh bước vào nhà “một cái bóng lẹ làng từ trong vụt ra, rơi xuống mặt bàn; Thanh định rõ nhìn: con mèo của bà chàng, con mèo già vẫn chơi đùa với chàng ngày trước. Con vật nép chân vào mình khẽ phe phẩy cái đuôi, rồi hai mắt ngọc thạch xanh dương ngước lên nhìn người”…. một đoạn văn đậm phong cách Thạch Lam, chỉ có trong văn Thạch Lam mới thấy xuất hiện một con mèo hiền lành của tuổi thơ, luôn chờ đợi cố nhân trở về và cất tiếng gọi để nó lẹ làng vụt ra như chờ đợi khoảnh khắc ấy từ lâu lắm rồi. Trong bóng tối mơ màng, Thanh nhận ra “hai mắt ngọc thạch xanh dương” của con mèo đang nhìn lên mình. Cái thứ màu xanh man mát, nhẹ nhàng, dịu dàng phảng phất màu quá khứ. Bức tranh làng quê càng giống hơn với những câu chuyện cổ khi bà Thanh xuất hiện, người bà với mái tóc bạc trắng thời gian, cây gậy trúc và đôi mắt hiền như như những bà tiên trong truyện cổ. Tự nhiên Thanh thấy mình bé lại, như ngày xưa mãi mãi là đứa trẻ con cần được che chở vỗ về, trong khoảnh khắc ấy dường như Thanh tạm quên đi cuộc sống bận rộn thường nhật của chàng, quên đi những bon chen nơi phố thị ồn ào; chàng trở về lối cũ, dưới gốc hoàng lan, hưởng lại những mùi xưa, mùi tuổi thơ, mùi quê hương đã tàn phai trong trí nhớ truân chuyên phủ nhiều bụi bặm chua chát của trưởng thành. Và bóng hoàng lan còn là cái bóng của miền cổ tích ngày xưa trở lại….
Thanh trở về mang theo cả “những mảnh trời xanh tan tác” ở trong tâm hồn mình, nhưng những vết thương cuộc đời thường được người ta chữa lành bằng kỉ niệm. Thanh trở về với ngôi nhà xưa, với bà, với mảnh vườn cổ tích và với cả cô hàng xóm có đôi môi thắm, đôi má hồng, một nụ cười và đôi mắt trong sáng lên như nàng tiên thánh thiện hiện về từ cổ tích. Nhân vật nữ trong truyện của Thạch Lam thường rất đẹp, một vẻ đẹp mong manh, nhẹ nhàng, cái đẹp của hồn xưa cổ tích in dấu trong những cô tiên xinh đẹp, cô Tấm thảo hiền. Tình cảm mong manh, mơ hồ đến với Thanh như nhắc nhở của một quá khứ chưa xa, vẫn còn gần rất gần đây thôi mà chàng quên mất, nó khiến Thanh “chẳng biết nói gì; chàng vít một cành lan xuống giữ ở trong tay để Nga tìm hoa, rồi nhẹ nhàng buông ra cho cành lại cong lên. Nắng soi vào vai hai người, nhưng dưới chân đất vẫn mát như xưa”…
Có nhà nghiên cứu đã nhận xét rất tinh tế rằng “Thạch Lam ở vị trí của một người trưởng thành nhìn lại dĩ vãng bằng cái nhìn thâm trầm, lặng lẽ”. “Dưới bóng hoàng lan” quả đúng là sự trở về quá khứ, với người bà mái tóc bạc phơ như trong truyện cổ tích, tiếng cười trong veo của cô hàng xóm, của đất mát lạnh dưới chân và hương thơm quen thuộc của một loài hoa…. Để rồi lúc ra đi, chàng thanh niên ân nghĩa ấy có trong hành trang của mình một chút thơm dịu ngọt lành của chốn quê xưa, thấy mình: “vẫn bé quá và lại đi xa.”…
Văn Thạch Lam luôn tỏa ra thứ ánh sáng nhẹ nhàng dìu dịu của viên đá xanh lấp lánh, luôn mơ mộng về một miền cổ tích hồn hậu và tươi đẹp. Viên đá xanh ấy có sức mạnh khiến người ta có thể tạm gác lại chút bộn bề của hiện tại để ngoảnh lại về quá khứ, đắm mình trong những không gian thanh lành, trong sáng để thanh lọc và tẩy rửa chính mình, nhắc nhở mình trước những ố tạp của bụi đời. Với nhà văn họ Nguyễn, nhân đạo đâu phải chỉ là thông cảm với cảnh nghèo khổ đói khát của con người? nhà văn muốn đạt đến cảnh giới cao nhất của lòng nhân đạo đó là hướng con người về cái thiện! Văn hào Pautopxki đã viết: “niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp” …. và với Thạch Lam “Dưới bóng hoàng lan” là hành trình cảm giác, là sự trở về trọn vẹn với những kí ức đẹp đẽ và yên bình nhất, là con đường về với cái chân thiện mĩ của con người.
Có những nhà văn đơn giản chỉ cần viết ít, nhưng có những nhà văn không thể không viết dài. Thạch Lam mất sớm, gia tài để lại chẳng thể gọi là nhiều nhưng tất cả những gì ông để lại đều là những cái đậm đà, những trang văn rất “chất” bởi ông là một trong số ít những người đi về phía vĩnh cửu. Con người ta chạy theo giá trị của một thời thì khi thời đại qua đi trở thành tay trắng, cái còn lại là những giá trị chuẩn mực của con người, những bất biến vĩnh hằng của cuộc sống. Đừng xếp Thạch Lam vào những giá trị thời đại nhất thời hãy để ông ở lại với địa vị vĩnh cửu của ông: một nhà văn nhân đạo từ trong cốt tủy.

Cô hàng xén-Thạch Lam

CÔ HÀNG XÉN (THẠCH LAM)
Nghệ thuật không phải lúc nào cũng là những thứ quá kì vĩ hay độc nhất vô nhị trong cuộc đời. Nghệ thuật có khi chỉ là một chiếc lá thường xuân xanh tươi bám trên một tường nhà rêu phong cũ kĩ. “ Bụi quý” mà người nghệ sĩ bòn đãi luôn luôn ẩn khuất trong những điều bình thường ngỡ như tầm thường nhất của cuộc sống chúng ta. Mang sứ mệnh tìm kiếm “vì sao” trong một “vũng bùn” lầy lội (ý của Đốpgiencô), các nhà văn cần có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm và hơn thế họ phải có cả trái tim yêu con người chân thành nhất. Không có nhiều nước mắt, cũng không có những tuyên ngôn về nhân quyền dân quyền vĩ đại, những trang viết của Thạch Lam là hơi thở sinh động của cuộc sống đời thường, lại nhẹ nhàng, trữ tình như một bài thơ xinh xắn. Nhưng ở chúng vẫn thấm đượm tình yêu con người ấm áp, chân thành của một tấm lòng nghệ sĩ đôn hậu, nhân ái. Đọc “Cô hàng xén”, lắng nghe và bắt nhịp với những dòng cảm xúc của nhân vật ta sẽ cảm nhận được tình yêu cao quý ấy chan chứa trong từng dòng văn, con chữ của nhà văn Thạch Lam.
Chợ huyện một tháng sáu phiên
Gặp cô hàng xén kết duyên Châu, Trần
Tác phẩm bắt đầu bằng một câu ca dao dung dị, mộc mạc để từ đó Thạch Lam dẫn chúng ta bước hẳn vào thế giới của một cô hàng xén nào đó ở thôn quê Việt Nam. Cô Tâm đẹp người đẹp nết, ngồi bán hàng kim chỉ, gương lược... lấy tiền nuôi gia đình và em trai đi học. Rồi cô đi lấy chồng, một cậu tú nghèo. Trách nhiệm với nhà chồng và nhà mình dồn lên vai cô như một thứ quang gánh vô hình nhưng nặng trĩu. Câu chuyện kết thúc bằng hình ảnh Tâm “ cúi đầu đi nhanh trong bóng tối”. Tác phẩm chỉ có thế. Cũng như hầu hết những truyện ngắn khác của mình, Thạch Lam chẳng đan cài nhiều tình tiết, cũng không kéo ai đi vào một ma trận chữ nghĩa, câu văn gọn gàng, “ co duỗi mềm mại”, nội dung giản dị dễ hiểu, chừng ấy thôi sẽ khiến nhiều người đặt câu hỏi: vậy cái “bụi quý” đẹp đẽ nằm ở đâu trong tác phẩm? Có lẽ văn Thạch Lam không nên tóm tắt, điều đó chẳng khác nào việc chúng ta ngồi đếm những ngôi sao trên trời. Sao sáng đấy những có bao giờ ta đếm hết được đâu… Vì không thể làm công việc của một người đếm sao nên chúng ta sẽ phải tìm đến con chữ, nhờ con chữ giải đáp hộ vướng bận trong lòng ta mà thôi
Cô hàng xén tên Tâm trong cái buổi chợ phiên hôm ấy là người xinh đẹp nức tiếng lại đảm đang nết na. Có lẽ nhiều người sẽ chỉ nhớ đến cô bởi vẻ ngoài dễ thương, người sâu sắc hơn thì ấn tượng bởi sự thùy mị, tháo vát ở một cô gái sớm biết lo toan việc nhà. Thạch Lam không phải một người qua đường vội vã, hời hợt, ông đứng từ xa, quan sát và khám phá những nỗi niềm ẩn đằng sau gương mặt xinh xắn, hiền dịu kia để rồi hòa cùng với nỗi lo âu, hoang mang của người ta như một người bạn tri kỷ. Và có xa xôi gì đâu, tấm lòng thông cảm, đồng cảm sâu sắc ấy của nhà văn chính là “bụi quý” chúng ta đang tìm kiếm.
Đặt mình vào hoàn cảnh của nhân vật chính, Thạch Lam cảm nhận được sự nhọc nhằn vất vả của cô hàng xén, đó là cái khổ vì thiếu thốn vật chất. Trong tác phẩm của ông, kẻ trí thức lẫn nông dân đều phải vật lộn trở trăn với miếng cơm manh áo hàng ngày, hàng giờ. Con người ta bị cái nghèo, cái đói dày vò đến nỗi không tìm ra lối thoát cho cuộc đời. Đó là những mẹ Lê ( nhà mẹ Lê), Sinh ( đói), Bào ( Người bạn trẻ)…Cùng là cái đói nghèo, nhưng mỗi nhân vật, nỗi khổ sở thiếu thốn ấy lại ở những trạng thái và dạng thức khác nhau. Với cô hàng xén Tâm, cái nghèo đói vẫn chưa xô đuổi Tâm đến mức cùng quẫn như những nhân vật kể trên nhưng tưởng như nó là một thứ khí quyển thứ hai vây quanh cuộc sống của cô, nó hắt lên những món hàng xén lặt vặt của Tâm một tương lai mịt mờ vô vọng. Từ thời còn son trẻ theo bạn bè gánh hàng xén đi khắp chợ buôn bán cho đến lúc về làm vợ nhà người, cũng vẫn gánh hàng bé xíu ấy, Tâm chắt chiu từ đó để nuôi gia đình mình. Những đồng tiền cô kiếm được - trước là để lo cho em, sau lại thêm gia đình chồng- vốn đã ít ỏi, nay bị xẻ nhỏ lại càng ít ỏi hơn. Và cuộc đời cô cứ như một tấm vải , ngày qua ngày cần mẫn dệt đều những đường chỉ thô ráp, nối dài cơ cực và mệt mỏi cho một đời người. Đến cuối tác phẩm, sau khi đưa hai chục bạc- số tiền lấy họ của chồng cho em Lân, Tâm trở về nhà trong nỗi buồn và lo sợ, “nàng cúi đầu đi nhanh vào bóng tối”. Sự sợ hãi loang dần trong bóng tối ở kết thúc tác phẩm không phải một nỗi sợ sinh lý, mang tính bản năng mà đó là sự sợ hãi, hoang mang của một mảnh đời loanh quanh trong nghèo đói, không tìm ra được lối thoát cho ngày mai. Nếu như Sinh vùng vẫy trong cái đói với trạng thái hèn hạ cay đắng, Bào lại trong tình trạng bơ vơ, bất lực thì Tâm lại gắn cái nghèo đói với nỗi lo âu không vun vén chu toàn được cho hai gia đình nội, ngoại. Cái tinh tế, nhạy cảm của Thạch Lam là ở đó, ông len lỏi vào ngõ ngách tâm hồn người, lắng nghe những vang động sâu thẳm bên trong để thông cảm đồng cảm với những thân phận khác nhau. Nếu không bằng một tấm lòng chân thành và giàu tình yêu thương liệu Thạch Lam có thể viết về những mảnh đời ấy chân thực và sinh động đến thế?
Thạch Lam đã từng tâm sự về thiên chức của nhà văn là “ phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, yêu thương hơn”, trung thành tuyệt đối với lý tưởng mình nêu ra, Thạch Lam giống như người thợ hót rác già Samet, ông đi vào buổi chợ đời, tìm trong đó “ những hạt ngọc ẩn giấu bên trong con người” ( Nguyễn Minh Châu). Thật may mắn, Thạch Lam đã không mất quá nhiều thời gian để tạo nên những “bông hồng vàng” bởi cái tốt, cái đẹp trong đời với nhà văn còn nhiều lắm. Thạch Lam dùng tấm lòng đôn hậu, bao dung của mình để soi chiếu lên các nhân vật, dễ dàng tìm ra những phẩm chất cao đẹp trong họ và từ đó trân trọng, ngợi ca con người như những biểu tượng đẹp trong cuộc sống. Quay lại với cô hàng xén, vẻ đẹp đầu tiên chính là ngoại hình. Nhà thơ Quang Dũng đã từng làm thơ về cô hàng xén:
Các cô hàng xén ngày xưa
Gương tròn bỏ túi
Tóc giắt hoa nhài
Khi gió mùa xuân
Xanh càng tươi lộc
Xem bói Kiều gieo quẻ nhân duyên.
( Cô hàng xén)
Rồi cả Hoàng Cầm cũng có câu thơ về cô hàng xén đất Kinh Bắc:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng.
( bên kia sông Đuống)
Cô hàng xén Tâm trong truyện của Thạch Lam cũng xinh, cũng nổi tiếng khắp vùng đến mức “ bọn con trai cứ hay quanh quẩn chỗ cô ngồi và buông lời chòng ghẹo”. và cái đẹp ngoại hình ấy lại càng tươi thắm, rực rỡ hơn khi cô cũng mang trong mình một tâm hồn tinh khiết như hoa huệ. Trong các truyện ngắn của Thạch Lam, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của Tâm trong những cô Liên, cô Nga… Ta tự hỏi phải chăng Tâm chính là hiện thân cho cái đẹp truyền thống đoan trang, thùy mị, đẹp người đẹp nết của người con gái Việt Nam?
Cái đẹp ở Tâm mà Thạch Lam muốn ngợi ca đâu chỉ là ngoại hình, mà cái chính là ở tâm hồn cô- một tâm hồn thanh cao, đẹp đẽ vô ngần. Tâm là chị Cả, là con gái đầu, lại là vợ của một thầy giáo nghèo. Dẫu biết một con người thì luôn có rất nhiều mối quan hệ xã hội, trong mỗi mối quan hệ lại đóng những vai trò khác nhau, nhưng với Tâm, cô phải hoàn thành tốt ba vai trò ấy cùng một lúc là một việc quá sức và áp lực. Nào là “ lo tiền cho chồng vụ thuế, những lúc giỗ tết, phải may vá cho Bài: chiếc áo lương mới chàng sắm ngày cưới đã bắt đầu bạc và rách rồi”, nào là “em Lân đã lên trường tỉnh, sự tốn kém lại càng tăng thêm” , về nhà chồng ít lâu Tâm còn sinh con, gánh nặng trên vai cô càng “ cong xuống và rền rĩ”. Tâm không muốn mang tội nợ với bất cứ người thân nào của mình cho nên cô đã chọn cách quên đi bản thể, hy sinh đi lợi ích của riêng mình, sống vì người khác chứ không sống cho mình. Con đường đi chợ của Tâm mỗi ngày dài thêm, chợ này bán ít thì cô lại sang chợ khác, cứ thế mà dài ra mãi, gánh hàng xén đong đưa theo nhịp chân đi và đôi vai gầy càng thêm còm cõi. Ngày qua ngày tần tảo hôm sớm, ra đi khi trời còn sương muối xót và lạnh, ra về lúc trời chập tối gió bấc và mưa phùn hiu hắt, cuộc đời Tâm cứ thế trôi đi thầm lặng. Cô Tâm xinh đẹp dễ thương ngày xưa nay trở thành một người đàn bà đứng tuổi. Nghĩ đến Liên, người bạn ngày xưa hay đi chợ cũng cô đã có một cuộc sống sung túc giàu sang, Tâm cũng khẽ chạnh lòng và thở dài “ bây giờ các chị em cũ không còn ai ở lại để cùng sẻ chia những nỗi khó nhọc với nàng”. Đây là lần đầu tiên Tâm nghĩ cho mình, thoáng chút băn khoăn, than thở cho số phận, nhưng rồi giây phút riêng tư ấy cũng nhanh chóng trôi đi bởi còn cha mẹ, các em rồi còn chồng con đang trông chờ ở Tâm, ở gánh hàng xen vụn vặt mà nuôi sống được bao nhiêu con người. Đức hy sinh đối với Tâm tưởng như một bản năng hình thành từ trong máu thịt và chấp nhận nó như một lẽ hiển nhiên của cuộc sống bởi vì “ có đâu chỉ một mình cô: trong những lũy tre xanh kia, bao nhiêu người cũng như cô, cũng phải chịu khó, và nhọc nhằn, để kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con , nuôi các em”. Ai cũng nghĩ như thế cho nên không riêng gì Tâm, những người phụ nữ Việt Nam đều coi đức hy sinh là một phần của cuộc đời họ, bởi thế ca dao ngày xưa đã hát:

Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
Câu ca dao ấy không chỉ là giai điệu thiết tha mênh mông ru con trẻ khôn lớn, ở đó dường như ta còn nghe được tiếng thở dài, lời chiêm nghiệm và cả tiên nghiệm cho số kiếp phụ nữ trong mọi thời đại. Đi khắp mọi nẻo đường đất Việt , ở đâu ta cũng đều bắt gặp những hình bóng những người như Tâm, tảo tần, lam lũ sớm hôm, hy sinh tuổi thanh xuân để đổi lấy một cuộc đời “ buồn dài vui ngắn” và chỉ biết “dấu nụ cười vào vầng trăng xa xôi”. Có lẽ khi miêu tả về Tâm, Thạch Lam chắc chắn có vấn vương hình ảnh người chị Nguyễn Thị Thế đảm đang, tháo vát của mình. Hình ảnh Tâm với đức hy sinh không biết mệt mỏi chính là hình ảnh của các bà , các mẹ, các chị- những người phụ nữ Việt Nam. Qua nhân vật Tâm, Thạch Lam bày tỏ thái độ trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn cao quý, trong sáng vô ngần của người phụ nữ Việt Nam.
Trong lời tựa của tập “ Gió đầu mùa”, Thạch Lam đã tâm sự rằng:
"Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới đầy giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn... " Lời phát biểu ấy ta tưởng như đã trở thành hoa tiêu để cánh buồm văn chương giương cao trong sóng nước. Suốt cuộc đời cầm bút của mình, Thạch Lam luôn vì lý tưởng ấy mà miệt mài sáng tác. Văn chương là để “ tố cáo và thay đổi một cái thế giới đầy giả dối và tàn ác”, nếu đem so sánh Thạch Lam với Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, chắc hẳn sức tố cáo , đả kích xã hội của ông không sắc nhọn và mạnh mẽ bằng, thế nhưng để “làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn” thì những đoản thiên tế vi dịu nhẹ của Thạch Lam phải là hàng đầu. Quả thật, rời khỏi những bộn bề xáo trộn của cuộc đời, bước vào thế giới của Thạch Lam, ta sẽ như bước vào một thế giới khác hẳn. Cô hàng xén cũng có cái lo lắng toan tính vật chất, cũng có cái bi kịch không lối thoát của con người thời đại nhưng ta lại không cảm thấy ngột ngạt ức chế như khi đọc những tác phẩm hiện thực phê phán. Có lẽ bởi vì nhân vật trong văn Thạch Lam dễ thương lắm, ngọt ngào lắm. Cô Tâm gánh hàng đi chợ suốt một ngày dài đằng đẵng nhưng cô vẫn có thể gác đi nỗi vất vả để lắng tiếng xao xác giẫm lên lá khô, ngửi mùi bèo dưới ao và mùi rạ ướt đưa lên ẩm ướt, hoặc ngay trong chính buổi chợ ồn ào, Tâm vẫn đủ thư thái để cảm nhận “ không khí giá và trong buổi sáng làm hồng da dẻ và khiến máu chảy mạnh”, những chi tiết tưởng như thừa thãi ấy lại là thứ làm nên đặc điểm văn phong của Thạch Lam. Mùi hương, màu sắc, khí vị của làng quê bình yên và trong trẻo, lại được cảm nhận qua nhân vật chính đã phần nào giảm đi cái khắc nghiệt của cuộc sống, mang vào cho trang văn chất thơ man mác, dìu dịu. Cái chất thơ bay bổng ấy, cái tâm hồn tinh tế ấy cứ tác động lên độc giả chầm chậm nhưng lâu tan như hương hoa nhài thoang thoảng, để rồi có những lúc ta cảm thấy tâm hồn mình hoàn toàn thư thái cùng với khung cảnh thôn quê mộc mạc, gần gũi. Và quan trọng hơn, từ những chi tiết ấy, ta cảm nhận rằng, Thạch Lam đã không để nhân vật của mình bị tha hóa, có thể nghèo đói, nhưng trong cảnh khốn khó, bùn đen, con người vẫn còn giữ lại được những cảm xúc tinh tế đủ để tâm hồn không bị chai sạn, đủ để biết rung cảm và trân trọng những cái đẹp tồn tại xung quanh con người. Phải chăng đây chính là thứ “bụi quý” của con người mà chỉ có Thạch Lam mới nhìn thấy, và phải chăng vì đặc điểm này mà nhân đạo trong văn của Thạch Lam lại có nét gì độc đáo và có sức hút như thế.
Sê khốp – phát biểu “ một nhà văn chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”, có lẽ cái thiên bẩm của Thạch Lam chính là “ nhân đạo từ trong cốt tủy” ấy. Văn phong Thạch Lam được coi là “ ngắt câu bằng màu, chấm câu bằng nốt nhạc, chuyển đoạn bằng hình ảnh” ( Thụy Khê) và dẫn dắt người đọc không phải bằng tình tiết mà bằng “ hành trình cảm giác”, bởi vì thế nhân đạo trong tác phẩm của ông cũng có gì đó khác biệt với những nhà văn khác. Ông dành nhiều tình cảm cho tầng lớp bình dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em- những kiếp người bé nhỏ, yếu đuối trong xã hội. Thạch Lam tỏ ra hết sức nhạy cảm trong việc nắm bắt hồn người, ông đặt mình vào những cuộc đời, thấu hiểu và cảm thông sâu sắc đến những nỗi bất hạnh, ngang trái trong cuộc đời đó. Từ thấu hiểu và đồng cảm, nhà văn khám phá ra những vẻ đẹp tâm hồn cao quý trong nhân vật, để nâng niu, ca ngợi bằng một lòng ngưỡng mộ chân thành. Và cái đẹp thanh cao - đó chính là mục đích văn chương của Thạch Lam, nó cũng là điểm thể hiện lòng nhân đạo sâu sắc nhất ở nhà văn này. Phải yêu, trân trọng và tin tưởng con người như yêu chính bản thân mình thì Thạch Lam mới có thể nhìn thấy đằng sau gương mặt tất bật lo toan chuyện cơm áo gạo tiền ấy những phẩm chất tính cách cao quý giống như sen trong đầm dù dính bùn lầy nhưng mang thanh tao, thơm ngát từ trong cốt cách.
Giống như nước rồi sẽ bay hơi và muối kết tinh ở lại, những tác phẩm có giá trị đích thực thì mãi mãi ở lại cũng lòng yêu mến của độc giả. “Cô hàng xén” của Thạch Lam ghi lại trong lịch sử một hình ảnh đẹp đẽ về người phụ nữ Việt Nam, về văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ngày nay đọc lại Cô hàng xén, ta mãi mãi không quên một kí ức buồn diệu với về những người:
Cần cù nuôi mẹ nuôi em
Nhưng cô hàng xén tên xinh
Đẹp như ca dao nước Việt
( Quang Dũng)

Số đỏ-Vũ Trọng Phụng

Đề bài: Ngôn ngữ “lai căng” của các nhân vật trong tiểu thuyết Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng.


Bài làm

“Số đỏ” là một cuốn tiểu thuyết hoạt kê có vị trí đặc biệt trong văn nghiệp của Vũ Trọng Phụng. Đây cũng là tác phẩm độc nhất vô nhị trong văn học Việt Nam hiện đại “một cuốn sách ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học”- nói theo cách nói của nhà văn Nguyễn Khải. Có rất nhiều những yếu tố làm nên thành công rực rỡ của tác phẩm, nhưng trong số ấy ta không thể không nói tới nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Vũ Trọng Phụng – đó là một trong những yếu tố làm nên tiếng cười không dứt, cái hài của tác phẩm.
Trong ngôn ngữ phê bình văn học, chữ “lai căng” còn nặng hơn cả chữ “dở”, nhưng lai căng còn tệ hại hơn “dở”, ở chỗ nó do bắt chước một cách nhẹ dạ và mù quáng, một thái độ phản bội đối với truyền thống văn hóa của dân tộc. Bởi vậy nếu “ dở” là biểu hiện của bất tài thì “ lai căng” là sự biểu hiện của sự kém cỏi về trí tuệ, hơn nữa còn là biểu hiện của hành động thiếu đạo đức! Và ở đây, Vũ Trọng Phụng sử dụng ngôn ngữ bắt chước, ngôn ngữ làm sái đi ấy để lột tả những hành động lai căng ở trong một xã hội lai căng, nửa mùa, không ra cái gì cả. Vậy Vũ Trọng Phụng đã vẽ lên cả một xã hội lai căng “em chã em chã!” như thế nào trong tác phẩm này bằng ngôn ngữ bậc thầy của ông?

Trong Số Đỏ, thời gian lúc nào cũng nóng, lúc nào cũng ồn ào như sắp nổ tung. Các nhân vật người – rối của Vũ Trọng Phụng mất đi khả năng suy ngẫm trăn trở nhận thức về bản thể. Hầu như nhu cầu hướng nội bị triệt tiêu – không còn độc thoại nội tâm trong Số đỏ. Nhu cầu hướng ngoại cũng chỉ bị cầm tù trong những mục đích thực dụng và vụ lợi một cách trơ trẽn. Vì thế nên ngôn ngữ nổi bật nhất trong tác phẩm là ngôn ngữ đối thoại.

Trong tác phẩm, lời đối thoại thể hiện rất rõ tính cách nhân vật. Tất cả nhân vật đều có
một đặc diểm chung: háo danh, khoa trương, giả dối . Kẻ nào cũng đại ngôn, cũng nói lấy được và luôn tự cho rằng mình đúng và chẳng thèm để tâm thực sự đến ý kiến của người đối thoại.
Điển hình thê thảm nhất cho thói háo danh vô nghĩa lý này là cụ cố Hồng – bố của nhà caỉ cách xã hội Văn Minh lúc nào cũng phải mặc một cái áo vải bông để tỏ ra là một cụ cố chính hiệu và mặc dù chẳng nghe và chẳng hiểu gì mấy nhưng cứ luôn mồm: “Biết rồi khổ lắm nói mãi”. Đây là Đoạn đối thoại giữa cụ Hồng ông với cụ Hồng bà:
- Ông ạ, tuy vậy tôi vẫn cứ cho mời cụ lang.
- Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi
- Tôi thì tôi nghĩ nên theo cả lối cổ và lối mới
- Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi.
Đến đây thì cụ bà không nói gì nữa ngồi trầm ngâm nghĩ ngợi làm cho cụ ông phải hỏi ngay
- Thế sao nữa hả bà?

Và các nhân vật khác thì sao? Sự bành chướng của nhu cầu tình dục, khiến cho một quả phụ thủ tiết với chồng là bà Phó Đoan hễ cứ nghe thấy ở đâu có chuyện hiếp dâm là trợn tròn mắt hỏi dồn: “ Ai? Ai? Ai thế?”. Đó là thói đua đòi háo danh và khoa trương khiến cho vợ chồng Văn Minh và ông TYPN hễ cứ mở mồm ra là văn minh, âu hóa, thể thao, cải cách, tân tiến, bình dân, quốc dân… Rồi sự thèm thuồng được nổi danh bước vào xã hội trưởng giả, được dự phần vào công cuộc cải cách – chịu trách nhiện quốc dân văn minh hay dã man của một kẻ dốt nát vô học nhưng có thừa sự láu cá, đểu cáng, biến Xuân Tóc Đỏ từ một kẻ chỉ quen với những “Mẹ kiếp! nước mẹ gì!” cũng biết véo von như một cái máy hát được vặn sẵn về Âu hóa, hạnh phúc, gia đình, thể thao, tân tiến, giải phóng phụ nữ, và cuối cùng dám hùng hồn tuyên bố: “ Hỡi công chúng! Mi chưa hiểu hết những cái lý lẽ cực kì to tát… Quần chúng nông nổi ơi ! Mi đã biết đâu cái lòng hi sinh cao thượng vô cùng … để góp phần vào việc tiến bộ trong trật tự hòa bình của Tổ quốc!.. Xả thân cứu nước! … Không muốn cho hành vạn mạng người làm mồi cho binh đao, mắc lừa bọn buôn súng!” ( 40, tập 2,462- 463)
Hơn nữa chỉ bằng mấy câu đại khái như “Mẹ kiếp!” “Nước mẹ gì!” thứ ngôn ngữ bình dân thường trực nơi cửa miệng của Xuân đã lột tả được bản chất lưu manh của thằng ma cà bông này ngay cả khi nó đã được tôn vinh là “ thượng lưu trí thức” “ anh hùng” “vĩ nhân”.
Chẳng hạn lúc Xuân còn đang lang thang nơi đầu đường xó chợ, được ông thầy số đoán “hậu vận khá lắm chỉ mỗi cái tóc không được đen” thì nó đáp ngay rằng: “ Mẹ kiếp!”Chứ xưa nay có mua mũ bao giờ mà tóc chả đỏ”; khi Xuân bị bắt bỏ bóp, nó bĩu môi:”nước mẹ gì! bóp với chả bóp !”; ngay cả khi đã trở thành vĩ nhân thì vẫn với thứ ngôn ngữ ấy: “ Thế thì nước mẹ gì cơ chứ!”. Lối nói năng của Xuân Tóc Đỏ là tiêu biểu cho lối nói lấy được, nói như cái máy. Thoạt đầu, Xuân nhại lời người khác một cách vô ý thức vì trong cái đầu rỗng tuếch của nó không có gì. Nhưng rồi thấy lối ăn nói của nó đem lại số đỏ một cách bất ngờ, nó đã bắt đầu tập nói như là một nhà chính trị đại tài của Tây phương với cái tài hùng biện của một người đã thổi loa cho những hiệu thuốc lậu, với cái hồn nhiên của một anh lính cờ chạy hiệu rạp hát. Khi mới bắt đầu làm việc trong hiệu may Âu hóa nó phải học thuộc lòng bài quảng cáo trang phục của ông TYPN như một con vẹt nhưng ngôn từ rỗng tuếch của ông Văn Minh và nhà mĩ thuật thấm vào đầu nó rất nhanh:
Xuân bị lôi đến một chiếc ma nơ canh. Nhà mĩ thuật lại nói:
- Hở cánh tay và hở cổ là dậy thì! Hở cánh tay và hở cổ là dậy thì!
- Hở đến nách và nửa vú là ngây thơ
- …
Thế rồi cả bọn ra đi.


Xuân tóc đỏ ưỡn cái ngực lên, giấu cái chổi lông gà sau lưng nghiên trang:
- Tôi? Là …là… một người dự phần trong việc Âu hóa
- À!
- Một người cải cách xã hội có trách nhiện quóc dân văn minh hay là dã man
- À! Thế thì tốt lắm!
- Thế cô muốn gì? Cái quần “ Hãy chờ một phút nhé”
- Tôi có chồng rồi không chờ được một phút nào cả.
Thế đấy! Cả một xã hội toàn những thứ kệch cỡm, vô nghĩa lý, không thể chấp nhận được. Nó buồn cười đến chớ trêu. Toàn những Ngây Thơ, Chinh Phục, là “Hãy chờ một phút” là cái gì cơ chứ!

Các nhân vật không ngừng liến thoắng. Bà Văn minh không ngừng liến thoắng trong tiệm may: “ Đây… đây …đây… tiệm may chúng tôi có rất nhiều kiểu… đây là bộ Lời hứa, nghĩa là để cho thiếu nữ nào mặc bộ ấy có thể như hứa với bạn lòng một cuộc hẹn hò vậy. Đây là bộ Chiếm Lòng. Mặc bộ ấy ta như nắm vận mệnh của bọn nam nhi trong tay ta. Đây là bộ Ngây thơ, đây là bộ Dậy thì, toàn cho gái mới nhớn…. Còn đây là bộ y phục tân thời nhất , vừa mới chế tạo được mấy hôn nay thôi, chúng tôi chưa kịp kẻ bảng nhưng nhất định đặt là bộ Chinh phục, nghĩa là có được bộ này thì ai cũng phải say mê bà dù là chồng bà!”. Bà Văn minh cũng như hầu hết các nhân vật không tin vào điều mà chính mình đang phát ngôn một cách đầy sốt sắng như vậy. Tất cả những gì đag nói ra chỉ là để lừa mị đối tượng, nhưng kẻ nói cũng chẳng hề biết là kẻ nghe có lọt tai hay không? Dòng thác ngôn từu trôi tuồn tuột theo thói quen ba hoa, khoe mẽ hoặc theo chương trình đã định sẵn, không viết chán bất chấp hoàn cảnh, bất biết đối tượng. Điều này tạo nên những tình huống trào phúng rất điển hình: “ông chẳng bà chuộc”, “ ông nói gà, bà nói vịt” .
Thế đấy!....
Lời của nhân vật trong Số Đỏ chủ yếu dùng để khắc họa những đặc điểm tính cách tâm lý là háo danh, thói giả dối, sự trắng trợn đến mức vô liêm sỉ. Lời của nhân vật cũng dùng để cấu tạo các tình huống hài kinh điển: tình huống nói dối, cãi lộn.
Chúng luôn mồm tuôn ra những từ như cải cách, là xã hội , là bình dân, là Âu hóa nhưng cái lối Âu hóa không phải lối ấy đã biến chúng chỉ như những con vẹt ngu ngốc. Nói là vậy nhưng trong mớ đầu óc rỗng tuếch kia chúng có hiểu cái gì đâu!
Và đây nữa, lại càng nực cười hơn nữa! Chẳng hạn đây là đoạn đối thoại của bà Phó Đoan với cậu con trai cầu tự.
- À, cậu tắm ! cậu của mẹ ngoan. Mẹ đi vắng ở nhà có đứa nào đánh cậu không?
Cậu Phước nguẩy đầu một cái mà rằng:
- Em chã!
- Thôi thế mẹ xin lỗi cậu vậy! mẹ thơm cậu nhé!
- Em chã!
(…)
- Thế thôi cậu cứ tắm cho ngoan rồi vào ăn cơm với mẹ nhé!
- Em chã!
Ngôn ngữ nửa mùa nghe mà muốn tức lộn ruột, muốn nôn mửa! Theo thụy Khuê, Vũ Trọng Phụng đã đưa vào miệng cậu Phước- con trai của bà Phó Đoan- một bà me Tây nạ dòng có hinh dáng Tú Bà như thế, họ Vũ không chỉ dưng lại ở địa hạt ngôn ngữ mà còn đi sâu vào thực thể con người. Cậu Phước là một hiện tượng lai căng thánh thể, tức là con của người ( bà Phó Đoan) và thánh( tuy chuyện cầu tự chỉ là chuyện tầm phào, bà Phó có đi cầu nhưng không thấy thánh giáng lâm), đẻ ra cậu với những lời thánh “ em chã, em chã”. Vậy cậu là một thực thể nửa người nửa thánh”. Cậu là hiện tượng đồng cô bóng cậu, lai căng đồng cốt.
Theo ông, “Em chã! Em chã!” thoát thai từ “Em chả! Em chả! Hẳn là có ý của nó như vậy. Chỉ lấy một hiện tượng để phản ánh cả xã hội đã cho thấy cái kì tài của ông.
Người Việt qua hình tượng bình dân này đã nhận ngay ra mình, đã nhìn thấy phần cá
tính lai căng của dân tộc mình, vì thế mà ngôn ngữ Vũ Trọng Phụng đã có khả năng chiến độc quyền thị trường ngữ nghĩa, bởi họ Vũ đã nói lên được một phần dân tộc tính của mình qua ngôn ngữ. chân dung người mẹ của cậu: bà Phó Đoan- cựu me Tây giàu có, xác định thêm một lần nữa tính chất lai căng này “với con chó Tây trong cánh tay, với hai con mắt mơ màng nhìn lên chiếc quạt, bà Phó Đoan có vẻ là linh hồn của nước Việt Nam trên con đường tiến hóa và giải phóng” . Tóm lại, các hiện tượng lai căng của Vũ Trọng Phụng đã đạt đến trình độ phổ quát.
Nếu như năm 1936, Vũ Trọng Phụng đã xây dựng lên Xuân Tóc Đỏ như như hiện tượng điển hình, một hiện tượng Âu hóa đầu tiên mà người Á Châu tìm đến nhưu một sự lột xác, như một sự xóa bỏ căn cước, xóa bỏ bản thể của chính mình thì qua đó người ta cũng biết đến ông với nghệ thuật bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. tuy thời gian cầm bút rất ngắn nhưng ông đã để lại cho đời những tác phẩm bất hủ làm đảo điên cả một thời đại. Vũ Trọng Phụng luôn “ sống” trong mỗi chúng ta!

Nhân vật Bá Kiến

Nhân vật Bá Kiến
Là một tác phẩm đa chủ đề, “Chí Phèo” của Nam Cao không chỉ khái quát về hiện tượng lưu manh hóa của một bộ phận người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng, phải bán linh hồn cho quỷ dữ mà còn tạo nên một điển hình về bọn cường hào ác bá tiêu biểu cho giai cấp thống trị trong xã hội Việt Nam. Hình tượng nhân vật Bá Kiến trong tác phẩm là nhân vật tiêu biểu cho tầng lớp giai cấp thống trị ở làng Vũ Đại. Tuy không phải là nhân vật trung tâm của tác phẩm nhưng với tính cách và hành động được miêu tả, Bá Kiến cũng để lại trong lòng bạn đọc những “ấn tượng” khó phai mờ.

Văn học hiện thực 30-45 dựng lên rất nhiều tên địa chủ ngự trị sau những lũy tre làng. Đó là Nghi Lại trong “bước đường cùng” (Nguyễn Công Hoan), là Nghị Quế trong “Tắt đèn” (Ngô Tất Tố). Thế nhưng tiêu biểu và sinh động hơn cả vẫn là Bá Kiến trong tác phẩm “Chí Phèo” dù so về dung lượng tác phẩm “Chí Phèo” chỉ là một truyện ngắn. Nghị Lại, Nghị Quế, Bá Kiến đều chung bản chất bóc lột người và vun vén làm giàu. Nếu ở Nghị Lại chỉ có tàn bạo và tham lam, Nghị Quế thể hiện một sự ngu dốt trắng trợn trong lời nói và hành động thì Bá Kiến gian hùng và mưu mô. Bá Kiến là một tên địa chủ thủ đoạn xảo quyệt, biết củng cố địa vị thống trị của mình bằng tất cả sự lọc lõi và khôn ngoan của một kẻ hiểu sự đời. Là một nhân vật phản diện nhưng với tính cách ấy, Bá Kiến khiến cho người dân làng Vũ Đại không những sợ cụ Bá mà ở họ “nể cụ Bá cũng có”
“Chí Phèo” là câu chuyện xảy ra ở làng Vũ Đại. Vùng quê ở đó có rất nhiều mối quan hệ phức tạp,chồng chéo: ở đó có những tên địa chủ độc ác đại diện cho tầng lớp thống trị(Bá Kiến, Đội Tảo…); có những tay đâm thuê, chém mướn (Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ); có những người lao động lương thiện, nghèo khổ, tàn tạ theo thời gian và năm tháng( Chí Phèo, cô cháu Thị Nở…). Bá Kiến đại diện cho tầng lớp địa chủ trong làng Vũ Đại. “Cụ” là một trong những kẻ luôn gây ra những mâu thuẫn trong các phe cánh, một tay chuyên “lấy những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò” và là một tên chuyên bóc lột dân lành bằng mánh khóe. Bá Kiến đứng đầu nắm trong tay rất nhiều quyền hành trong cái làng Vũ Đại nhiều mâu thuẫn, bức bối và phức tạp ấy.
Bá Kiến được đặt vào một vị trí trang trọng trong xã hội, khi nhà văn phác họa nên một lai lịch của một kẻ già đời trong nghề bóc lột : gia đình bốn đời làm tổng lý, bản thân Bá Kiến từng là lý trưởng, chánh tổng; cha truyền con nối trong thủ đoạn đè đầu cưỡi cổ người khác. Những kẻ như thế, vẫn được gọi bằng ông, bằng cụ một cách tôn kính. Uy quyền của Bá Kiến không phải chỉ bó hẹp trong phạm vi của một làng, mà "cụ Bá" là "bá hộ, tiên chỉ, chánh hội đồng kỳ hào, huyện hào, Bắc Kỳ nhân dân đại biểu "
Trong tác phẩm có bốn lần Bá Kiến xuất hiện, mỗi lần một vẻ và tất cả đều góp phần bộc lộ bản chất của con người ranh mãnh, khôn ngoan, gian hùng và tàn ác.
Lần thứ nhất Bá Kiến xuất hiện khi Chí Phèo đi ở tù về. Vốn là một người nông dân lương thiện, hiền lành, chăm chỉ, giàu lòng tự trọng nhưng bị Bá Kiến đẩy đi ở tù với một lí do mơ hồ ( có lần tác giả đã hé lộ lí do đó: Bá Kiến muốn tất cả trai làng đi ở tù), Chí Phèo trở về với trạng thái mất hết cả nhân hình lẫn nhân tính. Người ta bắt gặp Chí Phèo uống rượu và việc đầu tiên Chí làm là đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ. Bá Kiến xuất hiện trong một tình thế gay cấn và phức tạp, ồn ào và đầy khủng khiếp: Lí Cường quát tháo ầm ĩ, Chí Phèo kêu gào rạch mặt ăn vạ, dân tình kéo đến xem đông nghịt và điểm vào không gian ồn ào, nhốn nháo ấy là tiếng kêu của mấy con chó làm cho không khí trở nên khủng khiếp, hỗn loạn hơn. Trước tình thế ấy hẳn ai cũng phải bối rối thế nhưng khi Lí Cường phải chịu bất lực, mặt tái đi thì Bá Kiến bĩnh tĩnh “ thoáng nhìn qua, cụ đã hiểu cơ sự rồi” và “ việc như thế này cụ không lạ gì”. Bá Kiến bình tĩnh đến lạ lùng, với “tiếng cười và tiếng quát rất sang”, Bá Kiến bắt tay vào hành động ngay. Thoạt đầu “cụ” đuổi mấy bà vợ đang “xưng xỉa” chực tâng công với mình vào nhà, sau đó quay lại nói dịu giọng với những người dân để họ đi về. Mục đích của Bá Kiến là cô lập Chí Phèo. “Cụ Bá” biết đám đông chính là chất xúc tác để Chí Phèo có thể ăn vạ. Không có đám đông, Chí Phèo có kêu gào thảm thiết cũng là vô ích. Không dừng lại ở đó, để dập tắt ngọn lủa căm thù trong lòng Chí, “cụ” quay sang mắng Lí Cường “Lí Cường đâu! Tội mày đáng chết…” mắng Lí Cường mà mục đích chính là xoa dịu Chí Phèo. Bá Kiến đã rất hiểu Chí Phèo, hiểu suy nghĩ, hành động cũng như tâm trạng và lòng căm thù của một con người đã bị mình đẩy đến bước đường cùng. Vì thế sau khi quát Lí Cường, Bá Kiến quay sang nói với Chí Phèo bằng một giọng thân tình, ngọt ngào: “Về bao giờ thế? Sao không vào nhà tôi chơi? Đi vào nhà uống nước”, rồi cụ xốc Chí dậy mà phàn nàn “khổ quá, giá có tôi ở nhà thì đâu đến nỗi. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng Lí Cường nóng tính, không nghĩ trước nghĩ sau. Ai chứ anh với nó còn có họ kia đấy”. Đọc lần đầu, có lẽ bạn đọc đã lầm tưởng “cụ Bá” là người tốt, thậm chí rất tốt với Chí. Thực chất đây chỉ là lời nói của một kẻ “khẩu phật tâm xà”
Lời nói và hành động của “cụ” lập tức có hiệu quả, bằng chứng là “Chí Phèo chả biết họ hàng ra làm sao nhưng cũng thấy nguôi nguôi”. Đến đây “cụ bá biết rằng mình đã thắng”.
Ngay lần đầu tiên xuất hiện, Bá Kiến hiện lên là một con người biết kiềm chế, khôn ngoan, nhanh trí, đầy kinh nghiệm, hiểu đời. Có lẽ chính vì đức tính đó mà dân làng Vũ Đại sợ “cụ Bá” nhưng cũng nể “cụ Bá”
Chính vì hiểu đời, hiểu người nên Bá Kiến có thể biến Chí Phèo từ một kẻ đối nghịch thành tay sai của mình. Điều nguy hiểm nhất ở Bá Kiến là tội ác được hắn nâng lên thành nghệ thuật để cai trị kẻ khác “ lấy tên đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Đoạn Chí Phèo đến nhà Bá Kiến xin đi ở tù là một minh chứng. Bá Kiến rất nham hiểm khi đẩy Chí Phèo đến nhà Đội Tảo. Vì một trong hai kẻ này chết đều có lợi cho cụ
Chính sách cai trị “mềm nắm rắn buông”, "nắm lấy đứa có tóc", đặc biệt là những thủ đoạn rất nham hiểm :"Hãy vất người ta xuống sông rồi hãy vớt nó lên để cho nó đền ơn, hãy đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi hãy vất trả lại năm hào vì "thuơng anh túng quá"". Chưa một nhà văn nào lại giúp người đọc hình dung ra tội ác đáng sợ đến ghê tởm như Nam Cao. Với tất cả các thủ thuật trị người ấy, Bá Kiến quả là một kẻ "khôn róc đời" và đã phá tan cơ nghiệp của biết bao gia đình, đập nát hạnh phúc của bao nguời.
Không chỉ độc ác, nham hiểm Bá Kiến còn là một kẻ dâm ô và trác táng. Dù đã có 4 người vợ nhưng “cụ Bá” vẫn tìm cách lợi dụng và thông dâm với vợ Binh Chức. Cụ có “đức tính” ghen ghét với tất cả trai trẻ trong làng và cụ chỉ muốn cho tất cả những trai trẻ ấy đi ở tù. Đoạn văn quả có thể làm chúng ta bật cười vì sự ghen tuông của một ông lão đã ngoài sáu mươi, nhưng ta bỗng giật mình vì chứng tích của sự ghen tuông đáng buồn cười ấy bỗng hiện ra : một thằng điên, một thằng say, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại, sẵn sàng đâm chém bất cứ ai - ngày xưa nó cũng là một thằng trai trẻ…
Tiếng chửi của Chí Phèo ở đầu tác phẩm, tiếng chửi của một kẻ cô đơn và tuyệt vọng, một linh hồn méo mó và khổ đau là một minh chứng cho tội ác của Bá Kiến. Tác giả tả Bá Kiến sâu sắc bao nhiêu là nói về nỗi khổ đau của người lương thiện bấy nhiêu. Bá Kiến là đại diện tiêu biểu cho giai cấp thống trị ở nông thôn Việt Nam xưa. Con người ấy đứng đầu làng làm cho dân làng không thể sống
Như một quy luật tất yếu “con giun xéo mãi cũng quằn”, kẻ mưu mô, nham hiểm ấy cuối cùng cũng phải lãnh một kết thúc bi thảm. Bá Kiến đã biến một con người lương thiện trở thành một con quỷ dữ thế nhưng hắn không biết rằng tình thương, tấm lòng nhân hậu của con người có thể đưa lương tri đã mất trở về. Gặp Thị Nở, nhận sự chăm sóc của người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn” ấy qua bát cháo hành, Chí Phèo thức tỉnh sau những cơn say dài triền miên và vô tận. Lần đầu tiên “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” cảm nhận được những âm thanh bình dị của cuộc sống, nhớ lại ước mơ đẹp đẽ thời trai trẻ và khát vọng trở về làm người lương thiện bùng cháy trong con người đã bị tha hóa, biến dạng. Nam Cao viết: “trời ơi! Hắn thèm lương thiện…”( Người ta chỉ có thể “thèm” cái mà người ta từng có những giờ đã mất) thế nhưng trên con đường trở về với lương tri Chí Phèo đã vấp phải vật cản, vấp phải dư luận của người đời mà bà cô Thị Nở là đại diện. Bị Thị Nở từ chối, Chí Phèo buồn, Chí Phèo tuyệt vọng. Chí đã tìm đến rượu để quên đi tất cả nhưng càng uống lại càng tỉnh. Trong đầu nghĩ: đến nhà con đĩ Nở để đâm chết con khọm già nhà nó nhưng Chí đã tìm đến nhà Bá Kiến. Lần này Bá Kiến đã không hiểu Chí Phèo. “Cụ Bá” vẫn tưởng Chí Phèo đến để xin tiền uống rượu, vẫn tưởng chỉ đưa mấy đồng cho Chí là song. Một kẻ độc ác như Bá Kiến không hiểu một con người như Chí Phèo cần gì. Lần này Chí không cần tiền, không cần một “thước đất cắm dùi” hay một thứ vật chất nào khác mà cái Chí cần là lương thiện. Chí Phèo rút dao đâm chết Bá Kiếnvà giết chết chính mình. Nam Cao viết về bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo sâu sắc bao nhiêu càng thể hiện được tội ác của Bá Kiến. Sống trong một cái làng có những kẻ đứng đầu như vậy người dân thật sự không thể sống
Nam Cao không chỉ sắc sảo khi viết về Chí Phèo mà còn rất tài năng khi viết về Bá Kiến. Nhân vật Bá Kiến hiện lên với tất cả sự sinh động và chân thực. Nhà văn không chỉ cho ta biết về lai lịch nhân vật, miêu tả những chi tiết rất sống (tiếng quát rất sang. Tiếng cười Tào Tháo…), phơi bày những suy nghĩ của nhân vật qua độc thoại nội tâm mà để làm nổi bật tính cách nhân vật, Nam Cao để nhân vật xuất hiện trong những tình huống có vấn đề và vẫn với một giọng “lạnh lùng, tỉnh táo, khách quan” Nam Cao đã tái hiện sinh động hình tượng Bá Kiến với những nét bản chất nhất của tầng lớp thống trị trong xã hội Việt Nam thủa trước. Bá Kiến vừa tiêu biểu cho những loại người có bề dầy trong xã hội, vừa là những cá tính độc đáo và có sức sống mạnh mẽ.

Thị Nở (Chí Phèo-Nam Cao)

THỊ NỞ - HIỆN THÂN CỦA TRIẾT LÍ CON NGƯỜI, TRIẾT LÍ TÌNH
THƯƠNG TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO
Văn học là nhân học, văn học phải hướng tới con người và vì con người. Thế nhưng không phải nghệ sĩ nào cũng có cách thể hiện chữ nhân ấy giống nhau. Có người tinh tế nhạy cảm, yêu thương và rung động sẻ chia trước những nỗi đau khổ của con người, có người lại viết thứ văn sâu xa, chua chát và tàn nhẫn, cái tàn nhẫn của những con người tin vào tài năng của mình, thiên chức của mình. Nam Cao thuộc vào loại thứ hai ấy.Tuy đến với mảnh đất hiện thực muộn mằn nhưng ngòi bút của nhà văn luôn lách vào chỗ da non nhất của lòng người để từ đó bật lên tiếng dây đàn thánh thiện của lương tri...
Thơ ca xưa nay thường ca ngợi cái đẹp, đẹp của cảnh, của thiên nhiên, của trí tuệ, đẹp của người con gái nghiêng nước nghiêng thành mà ít ai chọn nhân vật trong tác phẩm của mình là một người xấu xí, đặc biệt lại là một phụ nữ, thế nhưng Nam Cao thì khác. Trong kiệt tác Chí Phèo của nhà văn ta có thể bắt gặp người đàn bà xấu xí nhất trong văn học, một người ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn. Ấy thế mà người đàn bà ấy lại là điểm sáng của tác phẩm, đến nỗi người ta cứ nhắc đến Chí Phèo là nhớ ngay đến Thị Nở !
Trước đây đã có nhiều quan điểm cho rằng khi Nam Cao xây dựng nhân vật Thị Nở và nhốt Thị trong cái tam giác: xấu xí, nghèo và ngẩn ngơ là nhà văn đã làm xấu xí, bôi nhọ hình ảnh con người, tuy nhiên sự thật liệu có đúng là như vậy? Người ta tự hỏi sao nhà văn lại tạo ra Thị Nở xấu đến thế, sao không tạo ra một người xấu vừa thôi, thậm chí lành lặn về nhân hình? Các cụ vẫn dạy “trông mặt mà bắt hình dong”, văn học xưa nay cũng vậy: nàng Kiều đã đẹp thì đẹp từ ngoại hình đến tính cách, cô Tấm xinh đẹp thảo hiền, cô Nguyệt của Mảnh trăng cuối rừng thì nhẹ nhàng như một ánh trăng, Nghị Hách, Nghị Lại thì cử chỉ điệu bộ lộ ra mặt kẻ chuyên “cướp ngày”, Từ Hải của Nguyễn Du mới thoáng nhìn đã thấy tướng mạo của một anh hùng “thân hùm hàm én mày ngài”……. Nếu như theo lối viết ấy thì Thị Nở của Nam Cao với“cái mặt thực là một sự mỉa mai của hóa công, nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào thì thật tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì thì mặt thị lại còn được hao hao mặt lợn”…. cái mũi của thị “vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành”, cái miệng thì “cũng cố to cho không thua kém với cái mũi, những cái răng của thị rất to và lại chìa ra….đã thế thị lại nghèo và dở hơi và là con nhà có mả hủi ….. hẳn thị phải là mụ đàn bà vừa xấu xí vừa nanh nọc và quỷ quyệt nhưng lạ thay nhà văn không đi vào lối ấy mà rẽ sang một hướng khác, ít gặp hơn trong văn học… Trong những câu chuyện cổ tích, cũng có nhiều nhân vật xấu xí nhưng bản chất lương thiện và tốt đẹp, những hoàng tử cóc, những Sọ Dừa cuối cùng vẫn thoát xác trở thành người xinh đẹp những Thị Nở thì khác từ đầu đến cuối Thị Nở vẫn xấu xí nhưng tâm hồn Thị luôn đẹp, một vẻ đẹp thánh thiện rất người.
Thị xuất hiện trong tác phẩm trong một khung cảnh lãng mạng và hứng tình: “Những đêm trăng như đêm nay, cái vườn phẳng ngổn ngang những bóng chuối đen như những cái áo nhuộm vắt tung trên bãi. Và những tầu chuối nằm ngửa, ưỡn cong cong lên hứng lấy ánh trăng xanh rời rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giãy lên đành đạch như là hứng tình”. Khi Chí mới uống rượu say quên trời quên đất ở nhà Tự Lãng về, nóng nực bứt rứt không muốn vào ngủ nên hắn đi ra vườn và Chí ngây ra nhìn người đàn bà ngồi tênh hênh trong vườn của hắn. Bình thường Thị Nở đã xấu xí, thế mà đêm nay, trong vườn chuối của Chí Phèo “hai tay trần của mụ buông xuôi, cái mồm của mụ há hốc lên trăng mà ngủ, hay là chết, chân thì duỗi thẳng ra trước mặt, cái váy đen xộc xệnh…” thị đã xấu lại vô duyên, thế mà Chí thấy thị phơi ra trăng, rười rượi những trăng, trăng làm đẹp lên… và hắn thấy “có cái gì rộn rạo khắp người”, bỗng nhiên hắn run run…. Hóa ra Thị Nở đi lấy nước đến đây thì thấy mát quá, thị buồn ngủ rồi cởi áo ngủ luôn, mà thị ngủ ngon lành và say sưa. Người xấu xí ngẩn ngơ như thị thì chẳng biết sợ, thị ngồi không kín đáo, nhưng chẳng bao giờ thị biết thế nào là lả lơi. Còn Chí, một kẻ chỉ say rượu, say đời chứ không đần độn, cái phần bản năng người bất ngờ trỗi dậy khi nhìn thấy thị, và Chí bám lấy thị.
Thị Nở bình thường ngơ ngẩn là vậy nhưng thị cũng biết dậm dọa, cũng biết kêu làng, thị vùng vẫy vật nhau với hắn và hổn hển “Ô hay…..Buông ra…..Tôi kêu….Tôi kêu làng….Buông ra…..Tôi kêu làng lên bây giờ” rồi thị lại bật cười thị đập tay lên lưng hắn, nhưng đó là cái đập yêu, “vì đập xong, cái tay ấy lại dúi lưng hắn xuống. Và chúng cười với nhau”. Thị và Chí ăn nằm với nhau trong đêm trăng ấy, trăng vẫn thức, vẫn trong trẻo và sông vẫn gợn sóng vàng......
Đêm nay trời ở rất cao
Sương thì đẫm quá trăng sao lại nhòa
Người ta mặc kệ người ta
Chỉ em rất thật đàn bà với anh
(Nỗi niềm Thị Nở-Quang Huy)
Cái cuộc ăn nằm ấy làm thức dậy bản năng rất Người của cả hai con người khốn cùng xấu xí ấy. Không phải ngẫu nhiên Nam Cao miêu tả mối tình của Thị Nở chi tiết đến vậy dù nó chỉ diễn ra vẻn vẹn trong năm ngày. Với cuộc tình ấy, Chí thay đổi, Thị Nở cũng thay đổi. Nếu từ trong hình hài quỷ dữ của Chí thức tỉnh bản năng người, Chí dừng lại trước bờ vực xuống vương quốc quỷ dữ để quay về, thì Thị Nở, từ một người xấu xí, ngẩn ngơ đã trở nên có duyên và thông minh. Ít nhất thì Chí thấy thị có duyên, “tình yêu làm cho người ta có duyên”. Trong đêm, người đàn bà ngẩn ngơ như người đần trong cổ tích ấy trằn trọc, suy nghĩ. Thị nghĩ rằng “cái thằng liều lĩnh ấy kể ra thì đáng thương, có gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình. Giá thử đêm qua không có thị thì hắn chết. Thị kiêu ngạo vì đã cứu sống một người” . Trong hình hài xấu xí ma chê quỷ hờn của Thị Nở nảy mầm hạt giống người, bản năng người rất đẹp. Thị có những thứ mà cả làng Vũ Đại này không ai có, ấy là tình thương người, bản năng người rất thật. Một người đàn bà xấu xí như Thị Nở hẳn chưa từng biết yêu thương và được nhận yêu thương. Thế nên thị vừa kiêu ngạo vì cứu sống một người vừa có cái tâm thế của một người chịu ơn. Nhờ Chí, thị được hưởng cái hạnh phúc rất đỗi đàn bà, hai người “ăn nằm với nhau như vợ chồng, hai tiếng vợ chồng ngường ngượng mà thinh thích”. Thị chịu ơn Chí là phải lắm, cả hai con người ấy chịu ơn nhau... Trong khi cả làng Vũ Đại xa lánh Chí thì Thị Nở lại bảo “khi say hắn rất hiền”, “những người trông coi vườn bách thú thường bảo hổ báo hiền y như mèo”. Nếu Bá Kiến mang tâm địa của một con hổ biết cười thì Chí ngược lại mang hình hài của một con hổ dữ nhưng lại có tâm hồn hiền dịu y như một con mèo. Duy nhất có Thị Nở nhìn ra điều ấy. Và thị thấy mình yêu Chí. Bởi thế thị trằn trọc, thị nghĩ mãi và thấy “chao ôi sao hắn hiền”… Thị Nở với tâm hồn của một kẻ cô độc đã hiểu, sẻ chia và cảm thông với Chí “có gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình”. Thị nấu cháo cho Chí, bát cháo của ân tình và lòng nhân hậu yêu thương. Cái đẹp nhất của con người toát ra từ trái tim nhân hậu giấu dưới hình hình của một kẻ ngu ngơ, một người như người đần trong cổ tích.
Cháo hành vốn là thứ cháo xoàng xĩnh, bình thường lại được nấu bởi bàn tay Thị Nở thì không biết có ngon lành gì hay không? Nhưng mà chỉ mình Chí thấy ngon là đủ “hắn cầm lấy bát cháo hành đưa lên mồm. Trời ơi cháo mới ngon làm sao! Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo ăn rất ngon”. Bát cháo hành của Thị Nở khiến Chí nhớ đến “bà ba”, con quỷ cái hay gọi Chí lên bóp chân, mà cứ muốn bóp cao lên trên, lên nữa..... Nam Cao cho hai người đàn bà xuất hiện trong cuộc đời Chí, đó là bà ba nhà Bá Kiến, một người hẳn xinh đẹp vào hạng nhất làng Vũ Đại và Thị Nở người đàn bà xấu xí bậc nhất làng ấy, một người mang hình hài đẹp nhưng có tâm hồn của một con quỷ và Thị, một người có hình hài ma quỷ nhưng có một tâm hồn người - và Chí chỉ nhận được duy nhất hơi ấm tình người từ Thị. Duy nhất có Thị Nở đối xử với Chí như một con người. “Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi. Chúng cũng nhận thấy thế và nhất định là lấy nhau” nhưng không phải cái xứng đôi đầy mai mỉa trong “đôi lứa xứng đôi” mà là cái tương xứng trong phần người. Mối tình Thị Nở- Chí Phèo chỉ kéo dài năm ngày nhưng Chí từ say rượu, say đời đến say tình còn Thị cũng được hưởng tình người, tình yêu và sự quan tâm từ Chí. Thế nhưng Thị vẫn dở hơi, đến ngày thứ sáu thì thị nhớ ra rằng thị có một người cô ở đởi, và thì quyết định: “Hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”.
Dĩ nhiên bà cô không bằng lòng, “bà gào lên như con mẹ dại, bà xỉa xói vào cái mặt con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời. Bà bảo phắt nó:
• Đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo !
Thị Nở nếu bình thường là người ngơ ngẩn thì chẳng nói làm gì, người đần không biết bực tức, thế nhưng thị yêu Chí, tình yêu làm thị thông minh lên. Thị tức lắm, thị muốn cãi nhau với bà cô mà không cãi được, thị “giận dữ nổi lên đùng đùng”. Và thị muốn đổ cái tức ấy lên Chí. Thị cong cái môi vĩ đại lên trút vào Chí những lời của bà cô, trút giận xong rồi thì thị hả hê lắm, thị định đi về nhưng Chí chỉ là thằng say chứ chưa bao giờ dở hơi. Chí hiểu ra sự thật và muốn níu giữ thị nhưng trời ơi ! “ai mà thèm lại, còn muốn lôi thôi cái gì”......thị gạt ra lại giúi thêm cho một cái”....
Chí Phèo đang mong ngóng làm hòa với mọi người, mong trở về làm người lương thiện. hắn hi vọng Thị Nở sẽ là cầu nối để quay về với thế giới người. Chí đang tưởng Thị Nở đưa tay ra gọi hắn thì nay Thị bỗng “trở mặt”, Thị đi rồi làm sao Chí quay về được,thị đi rồi nghĩa là Chí phải chết. Chí muốn trả thù, Chí uống rượu để đi trả thù. Nhưng lần này khác hẳn, mọi lần chí say rượu còn giờ đây càng uống Chí càng tỉnh, mà tỉnh ra thì Chí buồn, Chí ngửi thấy hơi cháo hành, bát cháo hành đầy tình yêu thương nhân hậu của Thị Nở. Hơi cháo hành mong manh như hạnh phúc trước mặt mà Chí không sao với tay ra nắm giữ được. Và hắn “ôm mặt khóc rưng rức”....
Nam cao rất coi trọng nước mắt của con người, quỷ dữ không biết khóc, chỉ có con người mới có nước mắt. Còn nước mắt là còn lương thiện, còn là con người theo đúng nghĩa chân chính nhất. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính Thị Nở đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức phần người bấy lâu nay ngủ yên trong tâm hồn Chí. Thị đem quyền lực của thiên tạo gõ vào hình hài con quỷ dữ đen tối đầy bất trắc ấy, thổi vào đời Chí hơi ấm của tình người và kéo Chí ra khỏi cõi mê man rồ dại. Thị Nở thoát khỏi vỏ bọc xấu xí và tỏa sáng vẻ đẹp của nhân cách con người. Nam Cao đưa ra một quan niệm ngược lại với quan niệm truyền thống, ông coi mỗi con người như một tảng băng : một phần nổi, bảy phần chìm như trong triết lí của Hemingue, đừng nhìn vào hình hài bên ngoài để đánh giá con con người mà hãy quan sát, hãy dùng tâm hồn mình để cảm nhận tâm hồn của người khác.
Chí đâm Bá Kiến rồi cũng chết, “giãy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi”. Cả làng Vũ Đại nhao cả lên, hầu hết cái làng ấy đều mừng, thậm chí có kẻ còn mừng ra mặt, vui sướng và hả hê “trời có mắt đấy anh em ạ”, “thằng nào chứ hai thằng ấy chết thì không ai tiếc”. Duy chỉ có Thị Nở trong sự hồi tưởng là xót thương cho Chí bởi “sao có lúc nó hiền như đất”. “Nghĩa tử là nghĩa tận”, Thị Nở là người ban cho Chí chút tình người cuối cùng khi Chí chết.
Kiệt tác Chí Phèo kết thúc bằng cái cảnh “Thị cười và nói lảng:
• Hôm qua làm biên bản, Lí Cường nghe đâu tốn gần một trăm. Thiệt người lại tốn của....
Thị nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, thị phải nhìn trộm bà cô rồi nhìn nhanh xuống bụng.... đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ hoang, xa nhà cửa và vắng người qua lại...
Cái cười và nói lảng, hành động nhìn trộm bà cô rồi nhìn nhanh xuống bụng của Thị không thể là hành động của một người “đần như người đần trong cổ tích” trái lại là hành động của một người đàn bà quá đỗi thông minh. Thị cười và nói lảng để tránh những câu chửi mắng của bà cô. Ai bảo thị đần, ngu ngơ? người đần đâu có biết kể “Hôm qua làm biên bản, Lí Cường nghe đâu tốn gần một trăm. Thiệt người lại tốn của.”.... Thị Nở còn nhìn nhanh xuống bụng và nghĩ ngay đến cái lò gạch bỏ hoang.... Thị đang nghĩ đến sự ra đời của một thằng Chí Phèo con, đó là suy nghĩ của một người đàn bà “nhìn xa” và biết tính toán.
Thị Nở xuất hiện trong tác phẩm vỏn vẹn có vài trang giấy và xấu, rất xấu. Nhưng có thể nói Thị càng xấu tác phẩm lại càng đẹp bởi Thị Nở là hiện thân của triết lí con người, triết lí tình yêu thương của Nam Cao. Vẻ đẹp của con người không bao giờ bị hủy diệt, nó vẫn sống, tồn tại và phập phồng hơi thở ngay cả trong vỏ bọc xấu xí nhất, trong thị và trong Chí. Hình hài con người có thể bị tàn phá nhưng linh hồn người mãi mãi vẫn sáng ngời vượt qua mọi định luật của sự băng hoại. Đúng như nhà văn Ai-ma-top đã viết “nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác, cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp”. Nam Cao bằng ngòi bút thiên tài của mình đã viết nên những trang tuyệt bút về tình yêu thương, lòng trắc ẩn của con người, nhắc nhở người đọc hôm nay hãy giữ lấy một Thị Nở trong mình để còn biết yêu thương.....
“Trên nền đất ẩm chiếu manh trang giấy trắng
Anh khai sinh bao nhân vật cho đời
Nên anh chết như chuyến đi dài hạn
Bởi họ sống thay anh giữa cuộc đời”
..................